TĨNH GIÁC và TỈNH
THỨC nhấn mạnh đến hai giai đoạn tu tập:
-
Tĩnh giác là giai đoạn từ tâm loạn động được chế ngự để được yên
tịnh theo dõi và biết rất rõ ràng từng chi tiết nhỏ, biết rất kỹ lưỡng, biết
không mờ mịt một chút xíu nào về đối tượng
đang tu tập. Đây là mục đích chánh của giai đoạn Tứ Chánh Cần, là đối tượng của tập sách này.
-
Tỉnh thức là trạng thái tâm tĩnh
giác mà bất động không có pháp nào khác ngoài tâm bất động này, được phòng hộ để chủ động sự sống chết, chấm dứt
luân hồi. Chỉ khi đã tĩnh giác mới TỈNH THỨC, lúc đó tâm hoàn toàn tỉnh táo
trong trạng thái thanh thản an lạc vô sự, mới đủ khả năng để tu tập đúng pháp
môn 4 Niệm Xứ.
PHẦN THỨ NHẤT
CHUNG VỀ PHÁP HÀNH CƠ BẢN
Trong
lúc tu tập, pháp của Phật muốn cho không
có vọng tưởng thì người ta dẫn tâm vào chỗ không có vọng tưởng, đâu cần phải
ức chế tâm.
Mục đích chánh của giai đoạn đầu này là cần tập
thành thục thân hành nội tức ngồi tập
chú ý vào hơi hít thở và thân hành ngoại
tức khi đi thì chỉ lưu ý bước đi.
HIỂU BIẾT TRONG KHI TẬP
1.- Thiện Xảo Vừa Sức
Phải
thiện xảo đối với mỗi pháp môn mà căn bản là đừng để tâm phóng dật
2.- Đúng Với Trạng Thái
Thân Tâm
Phải
biết các trạng thái thân tâm như thế nào để biết tâm lí mà tập luyện. Tập luyện
mà không thấy chán thì được.
3.- Kiểm Điểm Kết Quả
Sau
một thời tu tập cần kiểm điểm lại xem, dù kết quả nhỏ tuy thế nó vẫn sách tấn
nhiều. Có thấy tiến bộ sẽ làm con tích cực tập luyện, ham tập luyện.
4.- Lắng Tâm Thanh Tịnh
5.- Xác Định Đặc Tư?ng
Tùy
theo đặc tướng của từng người mà ngồi nhiều hay đi nhiều.
6.- Tập Luyện Đúng Đặc Tướng
7.- Pháp Chế Ngự, Pháp An
Trú
Tập
luyện bất kỳ pháp nào cũng lấy sự chế ngự
làm cách thức chánh. Tập luyện thái quá là ức chế.
Pháp
Phật tập luyện đúng rồi thì năng lượng ngày càng được sung mãn. Xả ra, thấy
trong người khoẻ khoắn thích thú, mà trong khi tập luyện thì được an vui, an lạc.
Căn bản là ngay từ lúc đầu tập luyện phải biết
cách chế ngự cho đúng, đừng rơi vào ức chế mà cho là chế ngự.
Hãy
thực hiện tập luyện cho thuần thục hai phần nhiếp phục tâm và an trú tâm. An trú thì phải có an trú thật sự.
Ngay cả muỗi châm đốt mà mình cũng không hay nếu đang trong lúc an trú.
8.- Vọng Niệm
Nhiếp tâm là khi tâm hoàn toàn không có một niệm
nào khởi. Vậy thì khi đi kinh hành hay khi ngồi luyện Định Niệm Hơi Thở phải
làm sao cho đạt tới kết quả không niệm trong thời gian 5 phút.
Phải
suy nghĩ tại sao cố gắng nhiếp tâm trong
5 phút mà còn có niệm xẹt? Như vậy là pháp
tác ý đang còn yếu đây, phải trở lại pháp tác ý “Tâm như cục đất, li hết tham sân si đi!”. Phải trở về tập luyện cái
nào nhiều nhất? Hãy tác ý “Li tham hết
đi! Li sân hết đi! Li si hết đi!”. Tác ý thêm “Đi kinh hành tôi biết tôi đi kinh hành”, rồi mới đi..
Niệm khởi là do bởi tâm còn tham sân si. Roi
trong khi đi co niem khởi, đứng lại tác ý li tham sân si nữa. Tác ý li tham sân
si càng nhiều càng tốt. Đang đi mà có niệm thì đứng lại tác ý. Cứ luyện riết một
thời gian sau sẽ hết niệm là do chính xả tâm tham sân si.
9.- Tâm Còn Tham, Sân, Si
Muốn
biết tâm còn hay hết tham sân si thì
xét xem trong bữa ăn có còn muốn ăn cái gì, thèm ăn cái gì không.
Tâm sân thì có những đối tượng khác để biết tâm
sân còn hay hết. Thí dụ bị một con kiến cắn, nhưng vẫn thương nó là hết tâm
sân.
Tâm si chỉ hết khi nào hết buồn ngủ, hết ngủ gật,
hết lười biếng; còn buồn ngủ, còn lười biếng là còn tâm si.
Muốn biết tâm tham sân si còn hay không thì phải tĩnh giác quan
sát lại nơi chính mình.
Khi
biết được tham, sân, si là ác pháp thì nương Tứ Chánh Cần để ngăn và diệt các ác pháp. Muốn ngăn và diệt ác pháp
thì đức Phật trang bị cho ta phương pháp Định
Niệm Hơi Thở là pháp môn đầy đủ để khắc phục được tham, sân, si. Do vậy, tập
luyện pháp Định Niệm Hơi Thở để giúp tâm không còn tham, sân, si.
10.- Hơi Thở Có Chướng Ngại
Nếu
bị chướng ngại hơi thở, mặc dù còn
nhẹ, thì phải xả hơi thở, đừng tập luyện nó nữa, để tránh các nguy hại khi bị rối
loạn hơi thở thật sự.
Nếu
thấy hơi thở có sự khác lạ thì nên ngồi
kiết già mà đưa tay ra, đưa tay vô và theo dõi kỹ chuyển động vô ra của
cánh tay. Khi cánh tay đưa vô hít vô; khi cánh tay đưa ra thở ra, nhưng chỉ
theo dõi cánh tay chuyển động mà không lưu ý hay điều khiển hơi thở. Hãy
nhiếp tâm vào chuyển động của cánh tay.
VẤN ĐỀ TÁC Ý
1.- Tác Y
Cách
thức tác ý phải như thế nào để năng lực của câu tác ý phát triển,
tăng trưởng cao, chứng đạt được kết quả? Chìa khóa chính của vấn đề là chỉ khi nào tâm được an trú thì năng lực
của câu tác ý hiện khởi rất nhanh. Tâm an trú có trạng thái an trú hiện ra.
Nhưng trạng thái an trú chỉ hiện ra sau một thời gian tập luyện lâu dài và từ
khi nó hiện ra cho đến khi tâm an trú được trong trạng thái đó thì cũng phải tập
luyện một thời gian khá lâu nữa. Khi đã an trú trong trạng thái đó rồi, nếu muốn
cái gì thì chỉ cần tác ý hướng tâm, lực tác ý sẽ thực hiện điều đó nhanh chóng.
Tâm lúc bấy giờ rất thanh tịnh.
Có tập lắng nghe thì nó mới xuất hiện ra trạng thái an tịnh
thật. Chừng khi có trạng thái an tịnh rõ ràng thật mới được xem câu tác ý an tịnh
có kết quả. Tác ý an tịnh là làm cho tâm
trú vào cái an ổn của thân. Khi tâm đã an trú vững vàng rồi thì bắt đầu từ
lúc này tập qua các đề mục sau (từ đề mục 6 trở đi) sẽ dễ dàng.
Tu
tập Định Niệm Hơi Thở khi tác ý li
tham, hay li sân, hay li si, mỗi cái LI thì hít vô và khi thở ra thì cảm nghĩ như có tâm tham, hay
tâm sân, hay tâm si theo hơi thở mà đi ra. Có cảm tưởng như thế. Tập luyện
như vậy thì mới có kết quả thực tế, chứ còn tác ý mà không có cảm tưởng gì hết
thì không ích lợi gì đâu. Đây là tập luyện phải dùng tưởng một ít. Vậy mà ta hết
tham, sân, si.
Kinh Hành Tĩnh Giác khi nhiếp tâm xong thì tác ý mỗi bước ₡An?, ₡Tịnh?. Sau khi trang thai an tịnh
hiện ra rồi thì tác ý ₡An – Tru?. An la trang thai cua thân, còn trú là trạng
thái của tâm trú vào sự an ổn đó, không còn bung ra, không còn phóng dật.
Đây là tâm định trên thân, là tâm trú trên thân yên ổn của nó. Nếu thân không
yên ổn, không an thì tâm chỉ trú một lúc lại bung ra.
Khi
nào thì thay câu tác ý ₡An, Tịnh?
sang cau tác ý ₡An, Trú? trong khi
kinh hanh? - Bắt đầu, tác ý từng bước đi. Bước thứ nhất ₡An?, bước thứ hai ₡Tịnh?,
cứ vậy tác ý ₡an – tịnh?; ₡an – tịnh?... Luc đau mới tap thì chỉ
dung no đe nhiep tâm thôi, tác ý theo bước chân để đừng có vọng tưởng. Thí dụ
khi đi kinh hành lâu thì có vọng tưởng cho nên dùng câu tác ý theo từng bước để
nhiếp tâm, cũng như cái lệnh theo từng bước. Đây là ta luyện Định Diệt Tầm Giữ Tứ trong khi đi để vọng
tưởng hoàn toàn không vô.
Còn
nếu vừa mới bước đi mà nghe nó khởi nói
tự động an-tịnh – an-tịnh thì phải dừng lại, không tác ý nữa, nhưng lắng
nghe sự an tịnh trong thân trong khi vẫn đi 5, 10 bước đi chứ không thì thành
thói quen cứ tác ý trong đầu ₡an-tịnh – an-tịnh? moi khi bước đi. Như vậy không
được, sai rồi. Nó làm động
An trú tâm chỉ có khi không được có niệm vọng tưởng.
Còn vọng tưởng thì chưa thể có an trú tâm được..
Cần
phải tập cho tới chỗ tâm bất động, tức phải đạt cho được sự bất động tâm.
2.- Phương Pháp Như Lý Tác
Ý
Có
3 giai đoạn:
Giai đoạn thứ nhất của Như Lý Tác Ý là dẫn
tâm vào trạng thái giải thoát. Dẫn tâm là tâm đang ở môi trường ác, đưa
nó, dẫn nó vào môi trường thiện.
Giai đoạn thứ nhì của Như Lý Tác Ý là hướng
tâm, là tâm hoàn toàn thiện rồi hướng nó đi vào hướng nào thì nó làm việc
theo hướng đó. Không phải tâm còn ác mà hướng. Hướng như vậy sẽ hướng tâm ác hết.
Muốn
được như thế thì phải phân biệt rõ ràng giữa pháp dẫn tâm và pháp hướng
tâm
Pháp dẫn tâm thứ nhất là tự kỉ ám thị: tác ý một câu mà hoàn toàn như là không có đối
tượng nào hết. Thí dụ tâm trong lúc không có tham, sân, si, đang sáng
suốt, không ham muốn gì hết mà tác ý “Tâm
như cục đất; li tham, li sân, li si hết đi!” thì đó là dẫn tâm, dẫn tâm vào
chỗ không tham sân si.
Pháp dẫn tâm thứ hai là nó đang ở chỗ tham sân si mà
nhớ và nhắc để nó hết bị tham, sân, si chi phối. Khi nhắc như vậy thì tâm có ý
thức để giải trừ khỏi trạng thái tham, sân, si đang có.
Pháp dẫn tâm thứ ba: Khi tác ý theo từng hành động của thân
thì đó không phải là pháp dẫn tâm nữa mà là truyền lệnh. Thí dụ ra lệnh
bảo ₡Cánh tay mặt đưa lên!? thì canh tay đưa
len. Đây chính là pháp Như Lý Tác Ý.
Còn
các pháp tự kỷ ám thị vừa nói trên chỉ được gọi là pháp Tác Ý. Pháp Tác Ý là pháp không có hành động của
thân tâm ngay tức thì.
Cả
ba pháp này đều được gọi là pháp Dẫn Tâm:
dẫn tâm vào Đạo và dẫn tâm theo lệnh. Dẫn tâm vào Đạo (Tác Ý) có năng lực thấp
hơn dẫn tâm theo lệnh (Như Lý Tác Ý).
Giai đoạn thứ ba là giai đoạn đủ 7 Giác Chi xuất hiện thì đây gọi là giai đoạn Hướng Tâm. Hướng tâm
nhập 4 Thánh Định, hướng tâm thực hiện ba Minh. Chỉ khi có sự xuất hiện đủ 7
Giác Chi mới hướng tâm được; nếu 7 Giác Chi chưa xuất hiện đủ thì đừng mong hướng
được tâm. Như vậy Hướng Tâm chỉ thực hiện trong giai đoạn này và dùng trong hai
nhiệm vụ chính yếu của sự giải thoát theo Phật Giáo: nhập 4 Thánh Định và vào 3 Minh.
pháp môn Như Lý Tác Ý có 3 giai đoạn tập luyện, phải thực hiện
tập luyện cho đủ cả ba giai đoạn: giai đoạn Tác Ý, giai đoạn Như Lý Tác Ý và
giai đoạn Hướng Tâm. Cả ba giai đoạn của pháp Như Lý Tác Ý đều áp dụng trên
pháp 4 Niệm Xứ cũng như trên pháp Thân Hành Niệm.
Tóm lại: pháp môn Như Lý Tác Ý đầu tiên là ám thị, kế là Như Lý Tác Ý là tác ý
hành động nào thì thân làm ngay hành động đó theo lệnh ý thức đưa ra. Ám thị là tác ý tâm mình, như “Tâm như cục đất, li tham sân si!” hay “Tâm phải vô ngã, xem thân này không phải của
ta!”. Đó là những pháp tác ý mà ám thị.
Như lý Tác Ý là tập luyện trên pháp THÂN HÀNH. Nó tác ý trên hành động của
thân, luyện cái thân, còn ám thị là
tập luyện trên pháp TÂM HÀNH, nó tác
ý về cái tâm, luyện cái tâm. Hai cái này phải liên tục tập luyện, đừng có lơi.
Bên
cạnh tác ý thì phải khéo léo dùng tưởng
nữa. Thí dụ như ₡Quán li tham...? thì
khi nương vào hơi thở tưởng như hơi thở đi ra mang theo bao nhiêu cái tham,
sân, si đi hết ra theo.
Phải luôn luôn tập tác ý. Tập riết thì sẽ trở thành thói quen.
Phải tập cho trở thành thói quen tác ý. Sau đó mỗi bước đi thì chân bước đi
nhưng cảm giác tham sân si li ra. Tác ý như vậy mà THẤY nó lìa ra chứ không phải
chỉ lưu ý bước đi thôi, PHẢI CẢM NHẬN như có cái tham trong lòng mình ra theo
bước chân.
HẠNH ĐỘC CƯ
1.- Sống Độc Cư
Chính
độc cư là pháp để giữ gìn mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý cho tâm
không có niệm. Do đó pháp phòng hộ các căn mắt, tai, mũi, miệng,
thân, ý là thiện xảo sống trong định. Chỉ độc cư mới là phương pháp đúng để phòng
hộ sáu căn, mới là thiện xảo sống trong định.
Khi
chỉ còn nghe thấy trong tâm thôi,
không nghe thấy gì bên ngoài thì đó là độc
cư trọn vẹn, chứ không phải gói mình trong phòng mới gọi là độc cư.
Muốn
cho 6 căn hướng nội thì phải tác ý hằng
ngày để dẫn nó vô, chứ không thì nó luôn luôn chạy ra.
2.- Hạnh Độc Cư Là Phương
Pháp Chế Ngự
Hạnh
độc cư có 3 giai đoạn tập luyện
Hạnh
độc cư chỉ là phương tiện để phòng hộ tai, mắt, mũi, miệng, thân, ý. Pháp độc
cư là để phòng hộ sáu căn, qua đó giúp cho tâm không phóng dật. Chính nhờ tâm
không phóng dật mà đức Phật thành đạo quả. Cần lưu ý các danh từ đức Phật dạy
₡chế ngự? và ₡ức chế?. Che ngự la
lam giảm bớt lại từ từ cho tới khi đi đến chỗ hoàn toàn phòng hộ được tai, mắt,
mũi, miệng, thân, ý.
Nghĩa
là mọi lần khi chưa tập luyện, ngồi rồi nghĩ lung tung, nhưng hôm nay nghĩ ít
hơn, rồi lần lượt ít hơn nữa. Đó là phương pháp chế ngự.
Giai đoạn đầu này rất khó, không được ức chế tâm mà chỉ chế ngự.
Tức là lúc đầu mới vào 5, 3 phút có thể không có niệm khởi, nhưng sau đó thấy
tâm có khởi niệm. Dù vậy, cứ để mặc nó. Có niệm thì có niệm chứ đâu hại gì. Niệm
đến thì để nó đến, niệm lui thì để nó lui; chỉ cần tập luyện đúng pháp để nhiếp
phục tâm thôi. Như vậy cách thức và phương pháp mà đang tập luyện
là chế ngự tâm. Không cố gắng tập trung nên không bị nặng đầu, nhức đầu, hoặc
căng mặt. Đó là không ức chế. Không sai. Pháp ở đây là tâm không lay chuyển trước
mọi niệm. Trong khi tu 4 Niệm Xứ thì cũng sống với thiện pháp, giữ tâm thanh thản
an lạc vô sự, khi có ác pháp thì dùng Định Niệm Hơi Thở đẩy lui.
3.- Muốn Sống Độc Cư Thì
Phải Suy Xét Hoàn Cảnh
Giữ độc cư là
sống theo pháp tu hành để tâm không còn phóng dật.
4.- Sống Độc Cư Để Giữ Gìn
Năng Lượng
Khi còn khởi niệm suy nghĩ gì thì lúc đó phải sử dụng
năng lượng nên năng lượng bị tiêu hao. Khi nào thân và tâm được an trú, tức không
phóng dật thì năng lượng không bị tiêu hao mà lại được tăng trưởng. Vì thế,
những người tập luyện thông suốt đến cuối cùng thì người ta không buồn ngủ là
vì năng lượng được bổ sung đầy đủ trong khi luyện tập, chứ không thì buồn ngủ
phải sinh.
5.- Hạnh Sống Và Pháp Môn
Tập Luyện
Khi hạnh sống chưa đúng nhưng pháp tập luyện đúng để li dục li
ác pháp thì cũng an trú được. Nhưng sự an trú không kéo dài. Làm sao li dục li ác pháp để sau khi li
hết dục và ác pháp thì sẽ an trú trong một tâm không có niệm khởi, không phóng
dật, không phóng tâm.
Khi dù có hạnh sống đúng
mà pháp tập luyện không đúng
để li dục li ác pháp thì hạnh đó bị ức chế, không li dục được. Dục bị ức chế.
Khi hạnh sống đúng, tập
luyện pháp đúng thì sự
an trú ngày càng được kéo dài, tăng dần lên cho đến khi đúng mức thì 7 Giác Chi
xuất hiện. Khi 7 Giác Chi xuất hiện sẽ giúp kéo dài sự an trú ra được 12 tiếng
đồng hồ. Luyện một thời gian cho kéo dài lên 24 tiếng_ một ngày đêm. Khi kéo
dài sự an trú lên 24 giờ được, thì kéo dài an trú suốt một tuần lễ cũng sẽ được,
không còn khó khăn gì nữa. Làm được vậy là chứng Đạo, là tu xong.
Con đường tập luyện để thân tâm thanh tịnh thì nương
vào giới hạnh và giới hành. Nương cả hai.
Muốn sống trong an trú được
thì phải hoàn toàn độc cư,
nhờ vậy tâm li dục li ác pháp hoàn toàn cho đến khi hoàn tất các pháp tập luyện.
Tâm li dục li ác pháp được thành tựu, được an trú thì hoàn tất đường tập luyện.
Hai
kết quả đầu tiên phải tranh thủ đạt cho được, bắt buộc phải tạp cho được ở giai đoạn
độc cư thứ nhất đó là nhiếp phục tâm và an trú tâm trong hơi thở và trong kinh
hành. Chỉ hai cái này thôi vì chúng sẽ đi kèm với các pháp tu tập
khác. Mười chín đề mục Định Niệm Hơi Thở là đủ hết các pháp để tập luyện. Mỗi đề
mục cần phải tập luyện cho đạt được các kết quả mới đủ năng lực để đẩy lui các
chướng ngại pháp trên thân tâm, tức là các ác pháp, vì thế con nên tập luyện thật
kỹ. Độc cư là điều kiện giúp tập luyện thành công 19 đề mục Định Niệm Hơi Thở,
nhất là khi giữ giới không ăn phi thời
thì li dục được.
6.- Xưa, Tỳ khưu Khất Thực
– Độc Cư
NHIẾP TÂM – AN TRÚ TÂM
1.- Điều Kiện Nhiếp Tâm –
An Trú Tâm
Giai
đoạn này tập luyện để đạt cho được sự
tĩnh giác trong chánh niệm, nghĩa là nhiếp tâm trong hơi thở, trên bước
đi kinh hành và trong Thân Hành Niệm. Nhiếp cho được, đừng để bị thất niệm, tức là đừng quên.
Quên không theo dõi hơi thở hay bước đi hay thân hành một tí xíu thôi thì cũng
là bị thất niệm rồi. Đây chỉ là giai đoạn tập luyện để được tĩnh giác và nhiếp được tâm
vào trong niệm của thân hành để có được niệm thôi.
Khi nhiếp được tâm trong
niệm của thân hành, rồi
sau đó mới tập làm sao để an trú tâm trong niệm thân hành. Nghĩa
là tập để tâm nhiếp được vào trong hơi thở, rồi làm sao cho tâm
được an trú trong hơi thở. Tức làm cho cả thân và tâm được an trú. Để đạt
được điều này thì phải tập luyện trải qua 2
giai đoạn: một là nhiếp phục tâm,
hai là an trú tâm. An trú không có nghĩa
là giữ đừng cho có niệm kéo dài trong thời gian thật dài. Không phải vậy. Khi
biết hơi thở hít vô thở ra mà cảm thấy toàn thân an ổn vô cùng thì lúc đó là đã
an trú trong hơi thơ
Nhưng
muốn an trú tâm kéo dài ổn định thì điều kiện là đời sống phải sống cho đúng giới luật.
Bây
giờ cần nhớ kỹ việc tập luyện chính của là nhiếp
phục tâm trong hơi thở hay trong bước đi kinh hành và an trú cho được thân và tâm vào trong hơi thở và trong bước đi, chỉ cần 5 phút. Không phải nhiếp phục
được tâm kéo dài trong 1 giờ, hay 2, 3 giờ là để cho hết vọng tưởng. Không phải
vậy. Chỉ vào tới Lậu Tận Minh mới hết vọng tưởng.
Khi
nhiếp phục và an trú tâm được rồi thì bắt đầu từ đó sự tập luyện sẽ phát sinh ra năng lượng, không còn bị
hao hụt năng lượng nữa. Lúc đó nó sẽ tự động làm cho giảm giờ ngủ lại, tăng giờ
tập luyện lên.
Cho
nên cần tập luyện từng hơi thở cho có chất lượng. Làm sao trong 5 phút phải nhiếp phục và an trú tâm cho được. Nếu
sau 5 phút mà chưa nhiếp phục và chưa an trú tâm được thì cũng tạm ngưng vài
phút, rồi lập lại tập 5 phút khác. Đừng tập luyện liên tục li?n 30 phút. Có hại,
không có lợi. Khi đã nhiếp phục và an trú tâm được trong từng hơi thở thì nối kết
dần từ hơi thở này đến hơi thở tiếp sau liên tục từ một phút tới lâu nhất là 30
phút thôi, không vượt qua thời gian này.
2.- Mục Đích Nhiếp Tâm Và
An Trú Tâm
Mục đích nhiếp tâm và an trú tâm để làm gì? – Đó
là khi nhiếp tâm và an trú tâm được thì mới
đẩy lui được chướng ngại pháp trên 4 chỗ thân, thọ, tâm, pháp, tức là đủ
năng lực để chuyển qua tập luyện 4 Niệm Xứ. Nếu chưa có khả năng an trú tâm này thì hãy khoan, đừng tập luyện 4 Niệm
Xứ.
Khi
bắt đầu tập luyện thì trên thân tâm thoải
mái không có gì. Nhưng đến khi ngồi bị muỗi đốt, hay tê chân, hay đau tay
thì đó là bị ác pháp rồi. Khi đó phải khắc
phục đẩy nó ra, không được để trên thân, thọ, tâm, pháp của con. Nhưng nếu
không có năng lực do nhờ luyện Định Niệm
Hơi Thở thì không đẩy lui được. Buộc lòng phải tập luyện Định Niệm Hơi Thở
cho đạt kết quả trước. Muốn tập luyện Định Niệm Hơi Thở thì phải luyện Chánh Niệm
Tĩnh Giác. Muốn tập pháp tĩnh giác đó thì cần phải đi kinh hành.
3.- Cách Tập Nhiếp Phục,
An Trú Tâm
Chữ an trú trong kinh và sự an trú trong các pháp tập
luyện có ý nghĩa như thế nào? Cụ thể là trong Kinh Hành Tĩnh Giác sự an
trú là sao, làm thế nào để không bị ức chế?
An trú vào hơi thở không có nghĩa là ngồi xuống
rồi hít thở ngay liền. Đó chỉ là biết hơi thở. Đi mà tập trung hết tâm ý vào bước
đi để các niệm không có thể khởi ra là đang hoạt động nhiều. Đó chỉ mới trú
mà chưa an.
Đây
là điểm mà đức Phật dạy là thiện xảo an trú. Khi đi biết bước chân đang đi là TRÚ chứ chưa an. Phải AN TRÚ mới đúng nghĩa. Đầu
tiên phải trú cho được, sau mới tới an. Trú tức là cái tâm ở trong niệm
kinh hành hoặc hơi thở, tức là nhiếp tâm vào bước đi hay hơi thở. Khi ngồi hay
đi mà chốc lại có niệm này, chốc lại có niệm kia, tức là không trú được, chưa
trú được. Nó phải nhiếp, phải ở được một thời gian cần thiết mới có trạng thái
yên ổn, tức an trú.
Ngồi yên lặng cho thân yên ổn rồi quan sát tâm thấy
cũng yên tịnh, một lúc độ 3 – 5 phút, giữ cho thân tâm đều an, không có gì hết,
sau đó tác ý để cho tâm nhiếp vào trong hơi thở thì nó sẽ an trú vô trong hơi
thở. Tức ngồi giữ thân bất động, giữ tâm không niệm khởi, rồi tác ý an trú.
Phải biết và nhớ điều này. Đó là cách an trú. Khi mới vô ngồi thì giữ tâm dễ lắm,
chưa có vọng tưởng đâu. Còn nếu vừa ngồi xuống, tâm còn lăng xăng mà đã lo chú
tâm hít thở thì tâm không nhiếp được, không an trú được.
An
trú đúng thì có trạng thái an lạc,
trạng thái của sự an trú. Không phải ngồi yên là có sự an trú. Ngồi yên chỉ có
sự yên ổn thôi. Cho nên nói an trú trên hơi thở hay an trú trên thân hành thì
trước tiên phải làm cho thân tâm an tịnh hoàn toàn, rồi mới vào an trú được.
Khi
đi Kinh Hành Tĩnh Giác, nếu có tạp
niệm xen vào nhiều, đã sử dụng câu tác ý “An
tịnh tâm hành tôi biết tôi đang đi” thì đúng rồi. Đó là những câu mà đức Phật
trang bị sẵn để khi tâm không an dẫn cho nó an, tâm không tịnh dẫn cho nó tịnh.
4.- Tinh Tấn Tập Luyện
Vừa
tập luyện xong Định Niệm Hơi Thở thì chuyển qua Định Thư Giãn để có thời gian
nghỉ ngơi, rồi Chánh Niệm Tỉnh Giác, rồi Định Thư Giãn lại. Khi đã ấn định thời gian 30 phút cho mỗi pháp thì chỉ
tới 30 phút thôi, không nên vượt quá.
Khi
tập luyện không chấp nhận thọ nào,
dù là thọ lạc, là thọ khổ, mà phải giữ đúng pháp, ôm pháp. Thông thường nhiều
người bữa nào tốt, tập luyện khoẻ thì họ hay tăng giờ lên, bữa nào dở thì giảm
xuống. Như vậy không nên. Dù tập luyện tốt lành hay yếu dở cũng phải ráng giữ
cho đúng giờ. Đừng nghĩ rằng khi tốt lành thì tập luyện thêm là có lợi ích.
Không phải vậy đâu. Chừng nào con thấy đủ sức tăng lên thì mới tăng lên cho tất cả mọi thời
tu. Phải chủ động điều khiển tập luyện trên pháp.
5.- Phải Tĩnh Giác Trong
Khi Tập
Muốn
được lúc nào cũng tĩnh giác thì phải
lúc nào cũng nhiếp phục được tâm trong thân
hành nội là hơi thở, và trong thân
hành ngoại là hành động của tay, chân, thân hình. Để được vậy thì phải luyện
sự an trú tâm trong thân hành đạt chất
lượng ít nhất phải trong 30 phút, Sau đó khi xả ra và trong sự phòng hộ của con
thì đó là tỉnh thức, có nghĩa là khi có TĨNH GIÁC mà được phòng hộ thì
đó là TỈNH THỨC, tức là khi áp dụng 3 cái Thánh: Thánh Giới Uẩn, Thánh
Phòng Hộ Các Căn, Thánh Chánh Niệm Tĩnh Giác, đó là Thánh Tỉnh Thức.
Trạng thái tĩnh giác sẽ phát sinh khi tập luyện với cái biết
thật rõ, thật tỉnh táo, đầy đủ ý thức. Phải dùng tối đa sức cảm biết trong ý thức
sáng suốt để tập luyện. Ban ngày tập luyện như thế nào thì ban đêm
như thế ấy.
Mức
độ tĩnh giác càng cao thì khi tập luyện các động tác diễn tiến càng chậm hơn.
6.- Suy Tìm Đạo Lý
Đâu
phải tập luyện Chánh Niệm Tĩnh Giác chuyên suốt hoài được. Sau khi xả ra thì bắt đầu suy tìm đạo lý. Ngồi mà tư duy, bởi tư duy giúp triển
khai tri kiến, làm cái biết được thực hiện trên đạo đức. Triển khai tri kiến ra
mới thấy được cái sai cái đúng từ xưa tới giờ nó như thế nào. Thấy cái sai thì
cố gắng khắc phục.
7.- Luyện Thân Tâm An Tịnh
Khi muốn cho thân an tịnh
thì làm sao? Tịnh có nghĩa là thanh tịnh, còn an là an ổn. Giai đoạn này chỉ tập luyện
để có trạng thái an tịnh của thân, chưa đến giai đoạn an tịnh của tâm.
“An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô; an tịnh
thân hành tôi biết tôi thở ra”. Tác ý như vậy để làm gì? – Để khi hít vô lắng
nghe thân có an tịnh hay không, chứ không phải cái an tịnh ở đâu bên ngoài đến
với thân. Không phải nó đến mà tự lắng nghe thấy rõ ràng thân có an thật sự,
không động đậy, không nhúc nhích chỗ nào hết. Tịnh là yên lặng mà thanh tịnh, tức là không bị động chút nào hết,
hoàn toàn yên lặng. Đó là thân vừa an mà vừa tịnh, không bị chướng ngại gì hết
Do
đó khi hít vô lắng nghe theo hơi thở
thì thấy thân an; thở ra cũng như
hít vô, thấy thân an. Lắng nghe đủ 5
hơi thở, tác ý lại lần nữa. Lắng nghe để xem thân an tịnh. phải tập luyện từng hơi thở và lắng nghe. Nếu có được hơi thở dài
thì dễ đủ thời giờ lắng nghe toàn thân hơn.
Trạng
thái an của thân khi lắng nghe được rồi thì khi nhiếp vào hơi thở nó sẽ rất an
tịnh. Rất an tịnh có được rồi thì sự lắng nghe sự an tịnh đó làm cho tâm gom rất
mạnh, tức là nhiếp phục tâm. Chỉ khi
an tịnh có được rồi thì thân mới có cảm giác im lặng mà sáng tỏ, lại yên ổn.
Lúc đó thấy thân khoẻ khoắn lạ thường,
không có một chút gì gọi là mỏi mệt, dù ngồi bao lâu hay ngồi cả ngày đi nữa
cũng không có dấu hiệu khó chịu nào, mà chỉ thoải mái dễ chịu thôi. Khi đó
không có cảm thọ nào trên thân đánh mình được. Đó là trạng thái hoàn toàn an
trú trong sự an ổn của thân.
Nếu
tập luyện mà không chịu lắng nghe sự
an tịnh tức là sự thanh tịnh an ổn trong thân (cũng như sự thanh tịnh của tâm)
thì – mặc dù chúng có đó – nhưng do con không nhận ra, hay không biết được sự an ổn
thanh tịnh đã hiện khởi, nên chúng bị mờ nhạt và biến mất, hay chúng
không hiện khởi trong thân cho con tập luyện. Còn cố công lắng nghe, từ phút này
qua phút khác thì càng ngày sự an ổn thanh tịnh càng hiện ra. Chúng là những cái cần thiết phải đạt cho được trước
khi có thể li dục li ác pháp. Nhờ có chúng, tức sự thanh tịnh an ổn trong thân
và sự thanh tịnh của tâm, cho nên khi cảm thọ đến thì làm chủ cảm thọ được.
Khi
tập luyện được vậy rồi, tức là không còn
dính mắc sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp nữa, thì đương nhiên có sự an trú. Có được sự an trú thì lúc bấy
giờ không còn buồn ngủ bởi vì buồn
ngủ là sự an trú của dục. Ăn mà có sự an trú của dục mới tìm sự ăn ngon. Ngủ mà
có an trú của dục mới tìm cầu ngủ nghỉ.
Người
nào an trú được thì họ sống một mình thôi, còn ai chưa thì họ phải đi tìm dục lạc, họ đi nói chuyện
này kia. Đó là vì không an tru
8.- Thất Niệm.
Trên
thân có ác pháp mà tác ý đẩy lui thì không phải thất niệm, vì ta chủ động. Còn
khi đang ngồi tập Định Niệm Hơi Thở,
bỗng dưng có một niệm khởi thì niệm theo
dõi hơi thở bị gián đoạn, bị mất thì đó là thất niệm, thất cái niệm đang tập
luyện.
Điều
quan trọng là làm sao tập nhiếp tâm và
an trú tâm trong hơi thở cho quen. An tịnh được mới tới an trú.
Chưa
hoàn mãn Chánh Niệm tức chưa sung mãn 4 Niệm Xứ thì đừng mong thực
hiện Chánh Định. Pháp 4 Niệm Xứ mà
sung mãn được rồi thì phải có năng lực 7 Giác Chi.
9.- Th?i Gi? Luy?n T?p
Tuỳ pháp nào con tập luyện mà được an lạc an trú
thì pháp đó tăng dần lên. Còn pháp nào chưa an trú được thì cứ giữ giờ tập luyện
cho đến khi được an trú.
Chỉ nâng giờ tập luyện pháp môn nào lên khi trong suốt
thời gian tập luyện của pháp môn đó hoàn toàn được nhiếp tâm và an trú tâm, không một phút giây nào bị thất niệm.
10.- Phá Buồn Ngủ, Ngủ Gục
Muốn
biết cách phá si như thế nào thì cần phải biết nghĩa và các tướng trạng của các
loại ma chướng buồn ngủ (hôn trầm),
ngủ mê (thùy miên), mất chú ý (vô ký) và mất ý thức (ngoan không).
11.- Giữ Nghiêm Giới, Giữ
Tâm Bất Động
Bí
quyết thiền định chính là hạnh sống.
Đúng giới mới li dục được. Ăn, ngủ,
độc cư, nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng đều chỉ nhắm mục đích li dục.
Tâm Bất Động là đối trước các ác pháp, các cảm thọ
mà tâm không giao động, thản nhiên, cho nên gọi là Tâm Thanh Thản An Lạc Vô Sự.
12.- Thánh Giới Uẩn
Giới là ranh giới, là phạm vi. Thánh Giới Uẩn là lấy 5 uẩn làm giới để giữ gìn tâm.
Mục
đích trầm lặng độc cư là để tâm
không phóng dật. Đó là bí quyết thành công của thiền định.
Tất cả ba cái: Thánh Giới Uẩn, Thánh Phòng Hộ Các Căn
và Thánh Chánh Niệm Tĩnh Giác lúc nào cũng đi chung nhau, không thể thiếu một
Thánh nào mà đạt thành kết quả được.
13.- Cách Ôm Pháp
Phật
không chấp nhận 3 loại cảm thọ: thọ lạc, thọ bất lạc bất khổ, thọ khổ; chỉ chấp nhận pháp mà thôi, tức là sức tĩnh giác trên niệm thân hành của chúng
ta.
Và
điều quan trọng nhứt cần lưu ý là khi tập luyện thì phải ôm pháp; khi không tập
luyện, ở trạng thái bình thường thì phải bình thường.
Khi tâm bình thường mà nó
bất động, chứ khi có ôm
pháp thì bất động mà khi rời pháp thì nó động là chưa phải thời. Đó chỉ mới tĩnh giác thôi.
14.- Ba Lần Tuôn Trào Tâm
Khi
tâm vào 4 Niệm Xứ thì thấy tâm thanh
thản an lạc vô sự. Sau đó sẽ trải qua 3
giai đoạn tuôn trào của tam, tức là những niệm ký ức ẩn chứa trong tâm, hiện
bày trở lại. Có trải qua tuôn trào tâm thì mới vào được trạng thái kéo dài thời
gian liên tục tâm không phóng niệm, không phóng dật. Chưa tuôn trào thì tâm không bao
giờ hết phóng niệm phóng dật.
SƠ
LƯỢC VỀ BẢY GIÁC CHI
Nhiếp tâm, an trú được, nghĩa là dù chỉ an trú trong một
phút thôi hay một giây thôi thì 7 Giác
Chi cũng xuất hiện ngay lúc có an trú. Cùng lúc có đủ cả 7 Giác Chi chứ
không phải chỉ một. Bằng không thì không an trú được. Không an trú thì không
bao giờ có 7 Giác Chi.
Bảy
Giác Chi sẽ có lực mạnh chỉ khi nào ta viên mãn đầy đủ 4 Niệm Xứ, chừng đó nó mới
xuất hiện Định Giác Chi của Sơ Thiền trở lên.
TUỆ BA MINH
MINH tức là VÔ LẬU. Thiện vô lậu là
gì không? Là tâm thanh thản an lạc và vô sự.
DUYÊN ĐỘ CHÚNG SANH
Khi
chưa li hết dục thì dục sai mình làm bậy.
SƠ
LƯỢC ĐƯỜNG LỐI TU HỌC PHẬT GIÁO
Cắt
đứt tham dục ngay liền thì sắc, thọ,
tưởng, hành, thức cũng sẽ bị hủy diệt luôn,
Nếu
cái căn bản là quán Định Vô Lậu không có,
thì ngăn chặn tham dục không nổi, không thấy được tham dục nữa chứ nói chi đến
ngăn chặn. Lớp quán bất tịnh phải quán cho xong trước.
Theo
pháp Phật thì có: Định Thư Giãn, Định Chánh Niệm Tỉnh Giác, Định Vô Lậu, Định Niệm Hơi Thở.
Tất cả đều nằm trên 4 Niệm Xứ.
TÀ THIỀN VÔ SẮC VÀ CHÁNH
THIỀN HỮU SẮC
PHẦN THỨ HAI : CÁC PHÁP
HÀNH
A.- ĐỊNH NIỆM HƠI THƠ
Luyện đề mục trước có kết
quả rồi mới nên chuyển
qua đề mục kế tiếp.
Đề Mục 1: Tĩnh Giác Đếm
Không Lộn
1.- Giải Thích Căn Bản
Khi
tập đề mục 1 của Định Niệm Hơi Thở, chỉ nhắm vào đếm không lộn. Nếu có niệm hiện khởi trong trí, trong tâm thì kệ
nó, đừng lưu ý. Tâm chỉ bám vào hơi thở,
biết hơi thơ, đếm đủ số 5 hơi, nín thở tác ý. Không quan trọng về niệm mà quan
trọng về pháp dẫn, tức pháp tác ý. Mục đích của pháp dẫn hơi thở là đếm
đừng lộn, tức là tĩnh giác, chứ không phải ức chế cho tâm hết vọng tưởng.
Niệm vọng tưởng là một sự tự nhiên đối với người mới tập
luyện. Có ₡vọng tưởng? hay khong co ₡vọng tưởng? khong quan trong, khong quan
he gì. Vọng tưởng có xẩy tới trong khi đếm hơi thở thì khi tác ý chắc chắn vọng tưởng phải bị cắt đoạn, phải bị tiêu trừ.
Tĩnh giác ở chỗ nhớ đếm,
và tĩnh giác biết hơi thở vô ra.
Hãy để tâm tự nhiên, chỉ giữ đúng 5 hơi thở thì lập lại câu tác ý. Đừng quên nhắc
câu tác ý. Quên lập lại câu tác ý thì ý thức bị chìm vào trong tưởng thức,
do kẽ hỡ đó Ma Tưởng xen vào.
Cũng
không nên đếm kéo dài lên tới 10 hay
20 hơi thở, vì chắc chắn sẽ bị tưởng chi phối. Chỉ chăm chú 5 hơi thở thôi, phải tác ý để hoàn toàn
tĩnh giác. Lúc này có hay không có niệm không quan trọng bởi tới đề mục thứ 7
là phương pháp dẫn tâm vào yên tịnh, không niệm khởi.
2.- Thực Hành Tập Luyện Đề
Mục 1
Hãy
để tâm nhẹ nhàng biết hơi thở vô ra
và tập gom tâm.
Ngồi
kiết già, gom tâm : Bắt đầu từ từ hít vào một hơi thở chậm, nhẹ và dài, đầy ngực (hơi nâng người lên, không phình
bụng). Khi hít vào hết sức thì thở ra cũng chậm nhẹ và dài. Hơi thở nầy nhằm mục
đích gom tâm về một điểm và làm cho đầu, thân và lưng thẳng đứng mà không ưởn tới
trước hay khòm xuống theo thói quen. Mắt nhìn phớt chót mũi nhưng tập trung
hoàn toàn sự chú ý vào một điểm ở nhân trung
Nín thở và tác ý thầm: "Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra". Tác ý
xong thì đếm "Một" Tâm
phải tỉnh táo sáng suốt biết rất rõ và theo dõi kỹ từ lúc hơi thở bắt đầu đi vô
cho đến khi hơi thở đi ra chấm dứt. (gọi là tĩnh giác nhận biết rõ hơi
thở vô, ra).
Sau
khi dứt hơi thở ra thì đếm ₡Hai? (đem
ngay trước khi hít vô), và tiếp tục theo dõi hơi thở đi vô rồi đi ra như hơi thở
số ₡Một?. tới ₡Năm?
Lưu
y gom tâm biết rõ hơi thở đi ngang
qua điểm nhân trung và đếm không lộn. Cứ đếm đủ 5 hơi, tác ý; không quên là
đúng.
Nếu
thấy câu tác ý dài, phải nín thở
lâu, cảm thấy khó chịu thì tuỳ nghi cắt bớt cho ngắn.
Tâm
theo dõi kỹ hơi thở đang hít vô, rồi hơi thở đang thở ra, từ lúc khởi động vô,
kéo dài cho đến khi ngưng hít vô, rồi bắt đầu thở ra, kéo dài cho đến khi hết
thở ra.
Khi
thiếu tĩnh giác, bị quên, mới đếm
thiếu, đếm lộn, đếm dư.
Khi
mới tập thì chỉ nên tập từ 1 đến 5
phút, nghỉ 5 phút rồi tập tiếp.
Khi
đang tập hơi thở mà cảm thấy sắp buồn ngủ
thì đứng dậy đi. Kinh hành nhưng vẫn giữ pháp môn Định Niệm Hơi Thở.
3.- Tập Hơi Thở Khi Ngồi Bị
Buồn Ngủ
Trước
khi cơn buồn ngủ tới thì đứng dậy đi nhưng
tập thì giống như khi đang ngồi.
Ngồi chỉ là điều kiện để gom tâm cho dễ mà
thôi, không phải ngồi để tâm thanh tịnh.
Đi hoặc ngồi đều là điều kiện tốt giống nhau để tâm thanh tịnh. Tâm
thanh tịnh là do chỗ xả tâm.
Giai
đoạn này cần luyện li dục li ác pháp ở
trong tâm chứ không phải ở trong thân, cho nên đi hoặc ngồi không là vấn đề
quan trọng, mà mục đích làm sao tập gom
tâm cho được (tức an trú tâm vào hơi thở). Khi tập
luyện tới thân thì giới là định, lúc đó con cần dừng một hành nào đó của
thân. Thí dụ hành thân thuộc về tầm tứ,
giờ muốn dừng nó thì mắt, tai, mũi, miệng không được hoạt động nữa. Pháp
đó thuộc về thân thì bắt buộc thân phải ngồi, chứ
thân đứng hay đi thì không làm sao tu tập được. Hành dừng thì thân làm sao đi
được. Còn bây giờ pháp tu tập là cái tâm, đi thì cũng tập luyện cái tâm, con ngồi
thì cũng tu tập cái tâm. Cứ ôm đúng pháp mà tu tập, khi đi cũng giống như khi
ngồi. Cần phải tĩnh giác trong khi tập luyện.
4.- Phá Trừ Cảm Giác Tưởng
Trên
đường tu tập thấy trong người có hiện tượng
gì lạ thì dùng ý thức tác ý cho
nó hết. Luôn luôn phải ở trong pháp thôi, còn các trạng thái hỉ lạc, khinh an
gì gì, đừng quan trọng với nó. Chỉ ôm
pháp thôi, cho tới khi luyện các đề mục tạo ra cảm giác nào mà có cảm giác
đó thì mới là kết quả thật của đề mục. Bây giờ con cần biết hơi thở vô và hơi thở
ra, cứ 5 hơi tác ý và chỉ biết hơi thở thôi, không biết cảm giác nào khác.
Nếu
cứ ngồi yên lặng để gom tâm thì sẽ bị
tưởng, không sao tránh khỏi. Đó là tập
luyện sai pháp. Khi đã tu tập sai pháp thì bất kỳ lúc nào muốn nhiếp tâm vào hơi
thở, tưởng cũng dễ dàng xuất hiện.
5.- Cẩn Thận Khi Tập Luyện
Trong
khi tập luyện có chướng ngại thì phải ngưng liền, tìm cách thay đổi cách tu tập.
Bất kỳ lúc nào thấy thân tâm không an ổn thì phải ngưng.
Kinh hành thì chỉ có ngoại lực vì đó là pháp môn
luyện thân hành ngoại. Tập hơi thở
là luyện thân hành nội mới có nội lực. Đường tu tập cần phải kết hợp nội lực và ngoại lực mới thành tựu kết
quả.
6.- Điểm Gom Tâm
Giai
đoạn đầu cần tập gom tâm, Phải bằng mọi cách làm cho tâm gom được trên tụ điểm nhân trung, sẽ có cảm tưởng như là hơi thở từ đó đi vào thân và từ đó đi
ra ngoài.
Khi gom tâm được thì có cảm giác của sự gom này. Có gom
tâm được mới có cảm giác. Phải gom tâm cho kỹ, cho chặt vào điểm đó trong suốt
30 phút.
Điểm tại nhân trung chỉ sử dụng để gom tâm theo đề mục 1 và 2 hay 3 của Định Niệm Hơi Thở.
Như vậy tập luyện Định Niệm Hơi Thở, tâm
không cố định ở một chỗ chung cho tất cả các đề mục. Nó không ở hoài chỗ
nào nhưng ta phải nương hơi thở vô ra chứ không phải chỉ biết hơi thở vô ra
cho tất cả mọi đề mục.
Khi
tu tập Định Niệm Hơi Thở, trong khi ngồi hít thở mà không cảm nhận hơi thở vô ra, không thấy hơi thở nữa, mất hơi thở.
Đừng quan tâm tới hiện tượng này. Bằng những câu tác ý, dùng ý thức để lôi nó
trở lại không cho tưởng che khuất nữa thì sẽ biết rõ lại hơi thở vô ra
7.- Định Diệt Tầm Giữ Tứ
Nếu
bị loạn tưởng, Hít vô thì ra lệnh
hơi vô ₡Hít!?; thở ra thì ra lệnh
hơi ra ₡Thở!? Đó là thiện xảo nhiếp
phục tâm không có một niệm nào xen vô được,
bởi khi tác ý liên tục và chú tâm kỹ vào hơi thở như vậy thì không thể khởi niệm
khác được. Đây là Định Diệt Tầm Giữ Tứ.
Sau khi không còn bị loạn tưởng, lúc
đó con bỏ lệnh ₡Hít?, ₡Thở?,
Ý nghĩa Định Diệt Tầm Giữ Tứ là phải giữ TỨ liên tục thì TẦM không vô được.
Đề Mục 2 Và Đề Mục 3: Hơi
thở chuẩn là hơi thở bình thường
Khi luyện đề mục thứ 1 thuần
thục, đếm hơi thở không
lộn trong suốt thời ngồi thiền và thời nào cũng được như vậy là đã đạt được kết
quả bước đầu của đề mục 1. Lúc đó, hơi thở sẽ thông suốt không bị chướng ngại
và nó sẽ hiện tướng khi dài khi ngắn.
Không còn bám chỗ tụ điểm nhân trung nữa, chỉ quan sát hơi thở thôi. Theo dõi độ dài hay độ ngắn của hơi thở trong
khi hít thở chầm chậm và hãy nhớ cứ mỗi 5 hơi thở tác ý một lần.
Đề
mục số 2 Định Niệm Hơi Thở hít thở dài, hay số 3 hít thở ngắn là để giữ hơi thở ổn định, không được dài
quá, ngắn quá mà phải theo đặc tướng. Hai đề mục này để giữ hơi thở ổn định.
Khi biết được hơi thở đặc tướng,
nghĩa là khi con thấy hơi thở đó là an ổn, không có gì chướng ngại cho thân thì
lấy hơi thở đó làm chuẩn. Từ đây giữ hơi
thở duy nhất này mà tập luyện.
Đề mục số 4: Cảm Giác Toàn
Thân hay Cảm Giác Thân Hành
Sau
khi đã có hơi thở chuẩn, hơi thở bình
thường của đề mục số 2 hay 3 rồi, đã chủ động được nó, quan sát được nó,
không cho nó thay đổi nữa, lúc bấy giờ mới qua đề mục 4.
Trong
đề mục này tụ điểm không còn trụ ở mũi nữa mà dời đi trùm khắp cơ thể. Tâm không bám vào đâu hết mà chỉ nương hơi
thở vô ra và cảm nhận toàn thân.
Nín
thở tác ý “Cảm giác toàn thân tôi biết
tôi hít vô; cảm giác toàn thân tôi biết tôi thở ra”. Khi hít vô thì có độ rung động của thân theo hơi thở (dao
động, máy động, phình xọp, nâng lên hạ xuống từng phần hay cả người,...), quan
sát, hay cảm nhận, hay lắng nghe độ rung động hay cảm giác đó. Nương vào sự
rung động của thân. Lúc hít vô cảm giác rung động từ trên đầu tới chân và lúc
thở ra cảm giác rung động từ chân lên đầu.
Dường
như khi tập như vậy thấy tâm theo hơi thở quét
từ trên xuống dưới, rồi từ dưới lên trên. Tương tự như lấy mắt nhìn từ trên
xuống dưới theo hơi thở vào, rồi ngó từ dưới lên trên theo hơi thở ra.
Dùng tâm quét suốt từ trên đầu xuống tới chân, rồi
ngược lại từ chân lên đầu, xem có cảm thọ gì. Nếu không có cảm thọ gì thì đó là
cảm thọ bất lạc bất khổ, còn nếu có cảm giác mát, lạnh, nóng hay đau nhức chỗ
nào thì đó là cảm thọ khổ. Chỉ ghi nhận
thôi, tức là biết thôi, không làm gì hết, có thế nào ghi nhận như vậy.
Tập
để biết được cách thức quan sát 4 chỗ
thân, thọ, tâm, pháp trước khi thật sự tập luyện 4 Niệm Xứ sau này.
Đề Mục Thứ 5: An Tịnh
Thân. Đẩy Lui Cảm Thọ
Tập
cho tâm an trú ổn định bằng cách
nương vào hơi thở và dùng câu tác ý ₡An tịnh
thân hành tôi biết tôi hít vô; an tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra”. Vì
tướng trạng an trú đã có sẳn lúc nhiếp phục tâm, nên khi tác ý an trú thì con dẫn
đi và nó từ từ hiện ra.
Cứ
cảm nhận sự an ổn của thân và sự yên tịnh (yên lặng) của tâm không có niệm. Hai
cái, khi hít vô thì cảm thấy thân an, không bị động đậy, không bị rung động;
khi thở ra thấy tâm không niệm, yên tịnh. Cứ hai cái đó mà cảm nhận thôi.
Sau
này, khi thân có cảm thọ khổ gì, dù ở mức vi tế, thì dùng kết quả đề mục 5 này
mà đẩy lui.
Đề Mục Số 6: Cảm Giác Tâm
Hành
Nhờ
có trạng thái an tịnh của thân nên mới nhận ra được tâm dễ dàng. Khi thân an tịnh
sẽ phát sinh hai trạng thái: trạng thái an lạc và trạng thái hoan hỉ. Nhận ra tâm là nhận ra trạng thái hoan hỉ
đó.
“Cảm giác tâm hành” là xem tâm có hành động gì không. Thí dụ ngồi
hít thở mà có niệm khởi thì đó là tâm động,
hành động; còn khi hít thở hoàn toàn không niệm khởi là tâm tịnh, hành tịnh. Chỉ ghi nhận cảm giác hành tịnh hay hành động của tâm thôi, chỉ nhận rõ tâm đang
tịnh hay đang động.
Tâm có hai hành là tịnh và động. Nó khởi ra
niệm này niệm kia, nó ở trong cái động. Đó là hành động, là tâm động. Còn tâm
không hành là không khởi niệm; không khởi niệm là tâm tịnh. (Thân cảm thấy đau
nhức, nóng, lạnh,... là thân hành).
Đề Mục 7: An Tịnh Tâm Hành
Sau
khi cảm giác tâm hành rõ ràng rồi
nghĩa là đã có cảm giác niềm hoan hỉ rất rõ rồi thì tác ý đề mục 7 “An tịnh tâm hành tôi biết tôi hít vô; an tịnh
tâm hành tôi biết tôi thở ra” để đưa
tâm vào trạng thái an tịnh. Lúc đó tâm hoàn toàn tịnh. Ngồi yên lặng rồi
quan sát tâm, con sẽ cảm thấy im phăng phắc, cảm thấy tâm ở trong một trạng
thái vắng lặng tuyệt vời đặc biệt.
Cứ
mỗi lần tác ý là con cảm nhận như tâm
có sự an ổn trong im lặng và mỗi lần hơi thở ra vô là thân và tâm tràn ngập sự
hoan hĩ an ổn. Chính trạng thái này là năng lực đẩy lui dễ dàng các cảm thọ về
tâm.
Khi
đạt được kết quả an tịnh tâm hành rồi
thì sử dụng pháp 4 Niệm Xứ đẩy lui các chướng ngại pháp. Bốn Niệm Xứ tập luyện trong Định Niệm Hơi Thở sẽ đẩy lui hết các
tham ưu chướng ngại. Lúc đó thì con chỉ còn luyện duy nhất pháp 4 Niệm Xứ thôi.
Các Đề Mục Thứ 8 Đến 17
Đây
là những đề mục mà trong kinh nói là ₡đẩy lui các chướng ngại pháp?. Ta trở
ve 4 Niem Xứ để tập luyện đẩy lui các chướng ngại pháp thì đúng phương pháp.
Sau khi thân tâm đã an trú được ổn định
rồi thì lúc đó mới đúng lúc có đầy đủ năng lực để quán 4 Niệm Xư
Đề Mục Thứ 18 :Phá Buồn Ngủ
Tác
ý đề mục này khi buồn ngủ trong lúc
tập luyện Định Niệm Hơi Thơ
CĂN BẢN TU TẬP ĐỊNH NIỆM
HƠI THỞ
1.- Nhiếp Phục Và An Trú
Tâm Vào hơi thở
Giai đoạn đầu, tập luyện Định Niệm Hơi Thở thời gian
ít, chỉ 5, 10 phút thôi, đừng lâu,
lâu hơn là ức chế. Trong khi 5, 10 phút đó phải tập thật kỹ, biết thật rõ ràng
từng hơi thở để an trú cho được trong hơi thở, tức là nhiếp phục được tâm trong
hơi thở. Bắt buộc chế ngự ₡trói? tam vao trong hơi thở vo, hơi thở ra
Nói
chung tâm phải niệm vào trong hơi thở
thì đạt được sự nhiếp tâm. Không phải tập luyện lấy có, mà phải tập luyện rất
nhiệt tâm từng hơi thở. Từng hơi thở vận
dụng sự tập trung chú ý rất nhiệt tâm thì sẽ đạt được kết quả nhiếp tâm.
Tâm nhẹ nhàng, thoải mái,
dễ chịu, chỉ duy nhất
biết hơi thở ra vô một cách tự nhiên liên tục không đứt đoạn trong suốt thời
gian 5 hơi thở. Mục đích của đề mục 1 là nhiếp
phục tâm (tức tâm bám thật kỹ từng hơi thở) và an trú được tâm trong hơi thở (tức không có một niệm nào xen vào
trong khi biết rõ sát hơi thở).
Đích chánh của giai đoạn này là phải nhiếp phục và an trú được tâm trên thân
hành, lúc đi cũng như lúc ngồi hít thở.
2.- Chọn Đề Mục Nhiếp Tâm
Đức
Phật đưa ra đến những 4 đề mục Định
Niệm Hơi Thở số 1, 2, 3 và 4 chỉ nhằm để
nhiếp phục cho được tâm. Nếu đề mục thứ nhất chưa đạt được nhiếp phục thì tập
đề mục thứ hai hay thứ 3; tập đề mục thứ hai hay thứ 3 chưa đạt thì tập đề mục
thứ 4. Không phải bốn đề mục này là bốn giai đoạn tu tập, mà chỉ để xác định đặc tướng người tu tập thích hợp với
đề mục nào trong việc nhiếp phục tâm thì họ lấy đề mục đó mà tập luyện nhiếp
cho được.
3.- Khi Nhiếp Tâm Vào
Trong Hơi Thở
Bây
giờ luyện cho nhuần nhuyễn đề mục số
2 để hơi thở dài hay đề mục số 3 để hơi thở ngắn hiện ra ổn định rồi thì cảm giác toàn thân sẽ dễ nhận ra.
“Nương
vào hơi thở” là nhiếp tâm vào
trong hơi thở, cho nên tâm không còn bám vào duy nhất một chỗ nào nữa vì
bám ở đâu thì chỉ biết ở đó thôi.
Nếu
nhiếp phục tâm được cả ở trong hơi thở và ở trên bước đi thì mới bảo
chứng được rằng đã nhiếp phục được tâm,
vì cả hai thân hành, thân hành nội và thân hành ngoại, đều nhiếp phục tâm được
hết.
4.- Thực Hành An Trú Tâm
vào Hơi Thở
Chỉ
khi nhiếp phục được tâm thì mới đủ
điều kiện để an trú tâm.
Từ
trước tới nay cứ 5 hơi thở tác ý một lần,
bây giờ, sau khi đã không còn bị thất niệm trong suốt 5 phút, thì tăng lên 10
hơi thở mới tác ý và giữ cho trong thời gian 10 hơi thở đó không có niệm nào xẹt vô. Rồi tăng dần lên cho tới 5 phút tác ý một lần, cũng giữ không
cho bị thất niệm trong thời gian đó.
5.- Cách kiểm tra kết quả
đề mục
Khi
mới ngồi xuống vừa hít thở mà đã thấy tướng
trạng của đề mục nào thì đó là đã viên
mãn đề mục đó cùng với tất cả những đề mục khác trước đề mục đang luyện.
Kết quả của đề mục 1 và đề mục 2 hay đề mục 3
xong rồi thì đề mục 4 mới dễ luyện thành công; đề mục 4 kết quả xong mới tập
luyện thành công đề mục 5... Khi luyện đề mục trước đạt kết quả xong thì tướng
trạng đề mục kế đó hiện ra liền; nếu kết quả chưa xong thì nó không hiện ra
đâu, không vượt qua để tập đề mục khác sau đó được.
Khó khăn là lúc khởi đầu. Đề
mục 1 mà đạt được thì những đề mục kế đó dễ kết quả lắm. Cho nên thiện xảo
₡Hít vô tôi biết tôi hít vô; thở ra tôi biết tôi thở ra?– ₡Hít? – ₡Thở? – ₡Hít?
- ₡Thở?. Đo la ₡Định Diệt Tầm Giữ Tứ?, la cach thức tap luyen nhiep tam có chất
lượng
6.- Kéo Dài An Trú - Kết
Quả An Trú
Đây là cách thức để kéo
dài sự an trú: Pháp của
Phật là pháp dẫn tâm nên phải nhớ
câu tác ý nào đã dẫn tâm vào an trú thì lấy câu đó sử dụng lại mỗi khi muốn kéo
dài sự an trú, không để nó giảm sụt.
Thí
dụ lực an trú hiện ra đang tốt thế mà luyện
một lúc thì nó bắt đầu lui ra, lúc đó phải nhớ pháp Như Lý Tác Ý nào đã sử dụng để được an trú thì khi ấy phải lấy pháp
Như Lý Tác Ý đó tác ý lại.
7.- Tập Luyện Phải Đạt Kết
Quả
Nói
tóm là sung mãn đề mục trước thì nó
tự chuyển qua đề mục kế.
Khi
đã an trú được thân (đề mục 5), rồi
an trú được tâm (đề mục 6) thì đã tới đề mục 7 của Định Niệm Hơi Thở. Ngang đây
thì nên dừng lại. Từ đây trở đi là pháp
môn li dục li ác pháp, không còn tập luyện trên Định Niệm Hơi Thở nữa mà trở
về 4 Niệm Xư luyện để li dục li ác
pháp cho hết. Ác pháp là những sự đau nhức... tác động trên thân, những niệm
này niệm kia khởi ra trong tâm. Lúc đó con dùng 4 Niệm Xứ đẩy lui các ác pháp
đó đi. Khi an trú được thì đẩy lui được.
Cái gì cũng đẩy ra được hết. Đau bệnh trên thân cũng đẩy lui để thân an, tâm khởi
niệm cũng đẩy lui để tâm an. Khi không an trú thì không làm sao đẩy lui các ác
pháp đó, các cảm thọ đó được. Vì vậy nên đây gọi là khắc phục tham ưu mà trong kinh nói.
8.- Tránh Trở Thành Thói
Quen
Nhưng
coi chừng tập luyện mà trở thành thói
quen thì cũng trật. Cứ thưa dần câu
tác ý mà vẫn nhiếp phục được tâm trong khoảng thời gian đó thì mới đúng
cách tập luyện. Đừng tập đứng một chỗ sẽ trở thành thói quen không tốt, không kết
quả, mất thì giờ. Nhưng coi chừng tăng
quá sức sẽ bị buồn ngủ. Phải giữ không cho tăng lên quá sức, chỉ tu tập ở mức
độ vừa sức cho thành thục, cho sung mãn năng lượng để khỏi bị buồn ngủ, ngủ gật
vì mất sức.
Các đề mục 1 cho đến 5 là phần an trú thân hành nội và thân
hành ngoại. Sau khi phần này được thuần thục, có được nội lực, được sung
mãn năng lượng thì phần tâm ở các đề
mục 6 và 7 mới khởi sự.
Kế
đó phải giữ gìn các giới hạnh cho thanh
tịnh, cho nghiêm (tức giữ giới độc cư vắng vẻ trọn vẹn và giờ ăn uống, thức
ngủ). Từ đó tâm tự đi vào an tịnh, chứ giữ giới không trọn thì tâm vẫn bị phóng
dật, vẫn bị bất an.
9.- Vận Dụng Hơi Thở - Đường
Dây Hơi Thở
Hơi thở tự nhiên mà nó không đều, khi dài khi ngắn, khi
mạnh khi yếu, xẩy ra trong một hai thời tập thì phải vận dụng hơi thở.
Đề mục 1 thì để tự nhiên. Chừng qua đề mục 2 hay
3 thì phải thực hiện như người thợ quay tơ, như người thợ gốm.
Chỉ
để ý chỗ gom tâm và hơi thở ra vô, không quan tâm tới những gì khác cho tới
khi nào tâm độc trú được trong hơi thở
thì chỉ thấy duy nhất hơi thở ra vô,
hoàn toàn chỉ một hơi thở duy nhất, không phải hơi thở thay đổi khi vầy khi
khác, cũng không xen bất kỳ tạp niệm nào.
Đề mục 1, 2 hay 3 là tập cho tâm nằm trên đường dây hơi thở; sau này nhờ an trú hơi thở trong đường
dây này mà thực hiện các đề mục khác theo ý muốn. Người nào tu tập không thuần
thục, chưa nắm vững ba đề mục này mà vội đi qua các đề mục 4, 5 là tập mất căn
bản.
10.- Vọng Tưởng và Định Niệm
Hơi Thở
Trong
Định Niệm Hơi Thở,đề mục 1 “Hít vô tôi biết
tôi hít vô; thở ra tôi biết tôi thở ra” không phải là đề mục để tập cho tâm
hết vọng tưởng mà chỉ luyện để tĩnh giác trong 5 hơi thở tác
ý một lần. Khi có tĩnh giác thì đếm không quên, đếm không lộn.
Cũng
như đi 20 bước tác ý một lần và ý biết
bước đi không gián đoạn trong khi bước đi thì đã tĩnh giác trên bước đi. Tập tĩnh giác thì cần nhớ 5 hơi thở tác
ý một lần, 20 bước tác ý một lần và cái biết hơi thở hay bước đi không bị gián
đoạn.
Có
hay không có vọng tưởng là do chỗ li
tham, sân, si chứ không phải do ức chế tâm. Lúc này là lúc luyện tĩnh giác, chứ không phải là luyện diệt vọng tưởng, làm cho hết
vọng tưởng.
11.- Hơi Thở Bị Chướng Ngại
Hơi
thở là thân hành nội nên đối với những người đã bị rối loạn hơi thở thì họ không nên tiếp tục tập hơi thở nữa, mà
chỉ nên tập thân hành ngoại thôi. Trường hợp đó người này phải ngưng tập hơi thở, chỉ tập luyện thân hành ngoại, tức là
kinh hành thôi. Biết bước đi mà tâm
không tập trung, đi rất tự nhiên, hơi thở không còn bị rối loạn nữa lúc đó
mới nên trở về tập hơi thở
12.- Định Niệm Hơi Thở Làm
Sung Mãn 4 Niệm Xứ
Các đề mục 1 tới 7 của Định Niệm Hơi Thở chuẩn bị cho con
đủ năng lực để đi vào 4 Niệm Xứ. Còn
các đề mục 8 đến 19 của Định Niệm
Hơi Thở không phải ngồi luyện Định Niệm Hơi Thở nữa mà phải trở về với 4 Niệm Xứ thì sẽ thấy cách tập
luyện rõ ràng. Khi tâm khởi tham, sân, thì ở trên 4 Niệm Xứ mà quán, dùng kết
quả của Định Niệm Hơi Thở tác ý đẩy lui. Phải
có tâm an trú thì mới đẩy lui được. Tâm chưa an trú thì đẩy lui chưa được.
Khi
tâm thanh thản an lạc vô sự kéo dài
trong một thời gian cần thiết mà không còn bị chướng ngại pháp trên đó nữa, thì
đó là thành tựu sung mãn 4 Niệm Xứ.
Sung mãn 4 Niệm Xứ thì có đủ năng lực 7
Giác Chi. Nếu lúc đó chưa có năng lực 7 Giác Chi thì con sử dụng pháp Thân
Hành Niệm kiên cố như cỗ xe, luôn luôn tác ý để làm cho Trạch Pháp Giác Chi xuất hiện.
Chánh Niệm của đạo Phật là
4 Niệm Xứ, mà sung mãn
4 Niệm Xứ tức là Chánh Niệm đã luyện xong, đã sung mãn rồi. Lúc đó qua Chánh Định để nhập từ Sơ Thiền cho đến
Tứ Thiền. Chờ cho đến lúc 4 Niệm Xứ sung mãn mới tác ý “Tâm phải li dục li ác pháp nhập Sơ Thiền đi!”.
13.- Cần Phối Hợp Các Kết
Quả
Định Niệm Hơi Thở chính là pháp Đức Phật trang bị cho ta
để đẩy lui các chướng ngại pháp. “An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô; an tịnh
thân hành tôi biết tôi thở ra” là pháp đẩy lui chướng ngại của thân. “An tịnh tâm hành tôi biết tôi hít vô; an tịnh tâm hành tôi biết tôi thở
ra” là pháp đẩy lui chướng ngại của tâm.
Còn “Với tâm định tỉnh tôi biết tôi hít
vô; với tâm định tỉnh tôi biết tôi thở ra” là pháp đẩy lui si, đẩy lui sự buồn ngủ, ngủ gật.
Muốn li gì thì phải tập luyện đúng pháp mới có
thể li được. Nếu muốn li tâm sân mà chưa dẹp tâm si thì li tâm sân không được,
cũng không li tâm tham được. Phật dạy mới vô đầu phải tu tập tĩnh giác, rồi tập làm sao cho tâm được an lạc, chừng đó mới
li tham, li sân, li si. Tâm chưa an lạc tức còn chướng ngại thì không li
cái gì được.
14.- Bài Kinh Xuất Tức Nhập
Tức
15.- Lưu Ý Về Định Niệm
Hơi Thở
Phật
có nói chúng ta nương vào đường dây hơi
thở để thực hiện các pháp khác, bởi vì Định Niệm Hơi Thở chia ra nhiều đề mục,
mỗi đề mục nhắm vào việc đẩy lui các chướng
ngại pháp, các ác pháp. Cho nên nếu không thuần thục ổn định các kết quả của
các đề mục thì trên 4 Niệm Xứ không
tập luyện được, không khắc phục được
tham ưu trên đó đâu.
Vậy người mới tập, nếu ngồi được 5 phút, 10 phút mà cơ thể
yên thì ngồi; nếu sau đó cơ thể không yên, sanh tê mỏi hay có cảm giác khó chịu
thì xả ra, đứng dậy, và tập đề mục 1, 2,
3 Định Niệm Hơi Thở trong khi đứng, khi đi chứ đâu cần ngồi. Nhưng khi đã nắm được hơi thở rồi, tức
an trú tâm trong hơi thở được rồi, thì nhất định không đầu hàng cảm thọ, không
đầu hàng cảm giác, để luyện cho thành kết quả. Luyện 30 phút là quyết ngồi đủ
30 phút.
16.- Định Niệm Hơi Thở
giúp Bốn Niệm Xứ
Bốn Niệm Xứ là pháp tập luyện ngồi rất tự nhiên, coi như mình là người không tập luyện pháp gì hết;
chứ nếu còn ôm pháp thì đó chưa phải là luyện 4 Niệm Xứ.
Bốn Niệm Xứ chỉ có đẩy lui chướng ngại pháp trên 4
chỗ thân, thọ, tâm, pháp thôi. Nghĩa là có chướng ngại thì dùng năng lực kết quả
của Định Niệm Hơi Thở để khắc phục, tức đẩy cho lui ra khỏi 4 chỗ đó, không có
thì ngồi chơi. Tối ngày ngồi chơi. Giữ tâm thanh thản an lạc vô sự. Không cần
phải tác ý thân tâm thanh thản an lạc vô sự, không cần phải tác ý tâm li dục li
ác pháp, tâm như cục đất nữa, không còn ngồi quán bất tịnh nữa. Những cái này tập
luyện trong giai đoạn Định Niệm Hơi Thở, bây giờ chỉ ngồi chơi thôi.
Đó
chính là lúc cần phải sống ĐỘC CƯ TRỌN VẸN
của giai đoạn 3 Độc Cư, để đẩy lui hết chướng ngại pháp trên bốn chỗ thân thọ
tâm pháp.
B.- KINH HÀNH TĨNH GIÁC
1.- Những Cách Thức Đi
Kinh Hành
Trước khi đi, phải đứng yên lặng vài phút để cảm nhận
cái yên tịnh, đừng vội đi sẽ không hay. Ở giai đoạn khởi đầu này, trong khi đi,
đừng cúi xuống nhìn chân mà phải nhìn xuống tới trước vài mét. Có 4 cách đi kinh hành.
Cách thứ nhất: Đi 20 bước,
1 lần tác ý
Nhớ
chỉ cần đếm đủ 20 bước, không thiếu, không dư, đứng lại, nín thở, tác ý, đi tiếp.
Có hay không có vọng niệm không quan
trọng.
Khi
lắng nghe bước đi là cảm giác bước đi. Kinh bảo lắng nghe là lắng nghe bước đi, tức là phòng hộ tai
không nghe ra bên ngoài. Đi đúng là đi mà ngó thẳng ra đằng trước, tâm thì chú ý vào bước đi, luôn luôn cảm
nhận bước đi. Nhìn ra đằng trước và cảm nhận bước đi một cách tự nhiên.
Cách thứ hai: Đi 10 bước kết
hợp với đứng hít thở 5 hơi.
Cách thứ ba: Đi 10 bước kết
hợp ngồi hít thở 5 hơi.
Cách thứ tư: Thân Hành Niệm
2.- Kinh Hành Chất Lượng
Khi
đi Kinh Hành Tỉnh Giác, hãy đi rất tự
nhiên, biết bước chân đi một cách tổng quát. Chỉ biết từng bước chứ không biết vào chi tiết. Đây là tĩnh giác
trên hành động đi
3.- Đi Nhanh Để Phá Buồn
Ngủ
4.- Phá Buồn Ngủ Bằng Kinh
Hành Và Tác Ý
5.- Khi Mới Tập Luyện Phải
Kinh Hành Nhiều
6.- Tâm Phóng Dật Phóng Niệm
Khi
đang đi mà vọng tưởng tới dồn dập thì nên đứng lại, giữ yên lặng một lúc cho
thân tâm ổn định rồi tập trung tâm ý tập luyện lại.
7.- Cách Kinh Hành Nhiếp
Tâm – An Trú Tâm
Nên
nhớ ý lắng nghe bước đi còn mắt thì
hãy nhìn ra xa để thư giãn bớt sự tập trung. Nếu ở giai đoạn mới bắt đầu này mà
gom mắt, tai, thân, ý vào bước đi thì ức chế quá.
Sau
thời gian luyện độ nửa tháng hay một
tháng, lúc đó mới bắt đầu gom mắt vào bước chân, mắt nhìn thấy chân bước.
Con sẽ thấy vọng tưởng giảm rất nhiều và cảm thấy dễ chịu trong suốt 30 phút.
Lúc đó là con đạt được sự an trú. An trú ở mức độ ngang với sự bớt vọng niệm.
Nửa tháng hay một tháng
sau lại gom thêm tai
vào. Đi mà mắt nhìn bước chân, tai lắng nghe bước đi, tập trung luôn cả mấy căn vào bước đi. Giai đoạn này là giai đoạn
đi 30 phút không một niệm khởi mà không bị căng mặt, nặng đầu.
8.- Luyện Nhiếp Tâm, An
Trú Tâm Khi Đi
1.- Giai đoạn 1 nhiếp phục tâm trên bước đi:
2.- Giai đoạn 2 nhiếp phục tâm trong sự an tịnh của bước
đi:
Qua
giai đoạn 2 này là nhiếp tâm trong sự an
tịnh của thân đang bước đi chứ không còn nhiếp tâm trên bước đi nữa.
3- Giai đoạn 3 an trú tâm trên bước đi:
Trong
khi nương vào bước đi mà lắng nghe thân
an và tâm tịnh. Luyện như vậy
thì không bị thất niệm. Tức là lúc
này tâm luôn luôn ở trên toàn thân.
4.- Giai đoạn 4 ₡an trú” tâm trong cái an tịnh:
Tiếp
tục luyện trên phương pháp thực hành biết
toàn thân tâm, cùng lúc biết cả toàn thân và tâm, chứ không phải đi biết đi không thôi đâu!
Như
vậy là tu 4 Niệm Xứ trong khi thân di
động.
9.- An Trú Tâm Vào Bước Đi
Tác
ý “An tịnh thân hành tôi biết tôi đang đi”.
10.- Tác Ý An Trú Thì Tâm
Phải Như Thế Nào?
Chỉ
khi nhiếp phục được tâm, rồi an trú được tâm thì đó mới là giai đoạn
tĩnh giác, sau đó mới tiến tới giai
đoạn tỉnh thức, định tỉnh.
11.- Đếm Số Khi Nào Trong
Lúc Bước
Đếm
số rơi vào trước lúc bàn chân bước tới có kết quả tĩnh giác tốt hơn.
12.- Li, Đoạn, Diệt Ngũ
Triền Cái Khi Đi
Khi
đạt được sự an trú tâm trên bước đi
rồi; thuần thục ổn định như vậy được rồi thì chuyển qua giai đoạn của cũng hành
động đi như vậy nhưng thay bằng tác ý ₡Li?, ₡Tham?... ở moi bước đi. ₡Li?, ₡Sân?...
roi ke đen la ₡Li?, ₡Si?... ₡Li?, ₡Man?... ₡Li?, ₡Nghi?.
13.- Sự Chú Tâm Khi Đi
Khi
tập luyện Kinh Hành Tỉnh Giác, mắt
có thể có hai điều kiện thấy bước chân đi:
-
Khi nhìn xuống thì thấy gần hết các
động tác chuyển động của chân.
-
Khi nhìn tới trước, không nhìn xuống
thì chỉ biết chuyển động của chân qua cảm nhận và hình dung nó ra.
14.- Khuyên Dạy Thêm
Về
sự ôm pháp tập luyện, càng ngày đi kinh
hành càng chậm lại là đúng. Thất niệm
là mất Chánh Niệm Tĩnh Giác. Có niệm mà không mất chánh niệm là đúng.
C.- THÂN HÀNH NIỆM
1.- Lời Dạy Đầu
Đây
là pháp tập luyện sau khi 4 Niệm Xứ đã sung mãn, nghĩa là ngồi chơi mà tâm
thanh thản an lạc vô sự 12 tiếng đồng hồ, vẫn thản nhiên không khởi một niệm
nào. Người đã chứng giới luật nghiêm chỉnh,
đã li dục li ác pháp.
2.- Cần Thiện Xảo Chọn Tốc
Độ
Đi
Thân Hành Niệm chậm nhưng không nên chậm
quá. Nếu thân hành vừa đúng với đặc tướng và nhân tướng của, không nhanh
cũng không chậm quá thì sẽ không bao giờ
có niệm khác xen vào.
3.- Phối Hợp Thân Hành
Tất
cả làm sao cho nhịp nhàng, đều đặn,
ăn khớp. Có vậy mới thành cỗ xe. Khi
đó sẽ có một niệm gọi là Thân Hành Niệm,
là niệm của thân.
4.- Thực Hành Tập Luyện
5.- Chọn Đúng Tốc Độ
6.- Tập Kỹ Lưỡng
Tập
thật kỹ lưỡng Thân Hành Niệm thì 7 Giác
Chi sẽ xuất hiện, khi đó cảm giác như có một lực điều khiển thân mình hoạt
động, không làm theo không được.
Lúc
chưa tập luyện thì nghiệp dẫn thân
hành. Làm rồi mới biết hành động đó, tức nghiệp chủ động. Bây giờ cái ý chủ động thân nghiệp. Tác ý rồi mới
hành động. Cứ tập luyện chuyên cần lâu ngày con sẽ làm chủ cái nghiệp. Làm chủ được nghiệp thì cũng làm chủ được
nhân quả.
7.- Chú Tâm Trong Thân
Hành Niệm
Lúc
đầu phải nhìn rất kỹ, tác ý rất kỹ.
Sau khi lực đẩy xuất hiện, có lực đẩy rồi thì không nhìn kỹ nữa. Do tập kỹ lưỡng
như vậy được một thời gian thì lực đẩy
xuất hiện, lúc đó không chú ý nhìn hành động thân kỹ như thế nữa, cũng
không tác ý ra lệnh nhắc từng chi tiết nhỏ mà chỉ tác ý ra lệnh tổng quát, thí dụ ra lệnh: ₡Chân mặt bước!? thì chan tự động dở gót lên, dở chân lên, đưa chân
tới, hạ chân xuống, hạ gót xuống.
Muốn
đạt được như thế thì Định Niệm Hơi Thở
không thể nào không đi đầu, tức cần phải an
trú tâm vào trong hơi thở cho được. Khi an trú vào hơi thở xong thì đứng dậy
bắt đầu ra lệnh ₡Chân trái bước!? Mot
khi tam đa an tru và vừa khởi động luyện Thân Hành Niệm thì sẽ có một lực hiện ra tức khắc.
Đến
khi tập luyện thuần thục rồi thì lệnh vi tế không còn mà chỉ còn cái ý bám chặt vào thân hành, chừng đó
ý tới đâu thân hành động tới đó, thân không rời khỏi ý mà ý cũng không rời khỏi
thân. Lúc đó gọi là “tâm định trên thân” của Niệm Giác Chi. Tình trạng rất vắng lặng,
ý bám rất chặt vào thân hành.
Thân
Hành Niệm là NHẤT DẠ HIỀN đó.
8.- Cần Tập Luyện Dưới Sự
Chỉ Dạy Của Vị Thầy
9.- Thân Hành Niệm Sanh Bảy
Giác Chi
Nếu
luyện 4 Niệm Xứ chưa sung mãn, Dùng
pháp Thân Hành Niệm để cho 7 Giác Chi xuất
hiện đầy đủ năng lực.
Niệm Giác Chi bắt đầu có. Thân trở thành niệm của
tâm, hay trong kinh nói ₡Tâm định trên thân? va bat đau co Định Giác Chi, tâm không còn phóng dật
ra nữa.
Phải
tập luyện 7 đề mục căn bản đầu của Định Niệm Hơi Thở cho đạt được kết quả,
chừng đó chuyển qua luyện 7 Giác Chi sẽ được dễ dàng.
10.- Tứ Niệm Xứ – Thân
Hành Niệm
Khi
tập pháp Thân Hành Niệm này họ có được
sự nhiếp tâm trên bước đi. Để khi tập luyện pháp môn Kinh Hành Tĩnh Giác hay Định
Niệm Hơi Thở thì dễ nhiếp tâm vào bước
đi hay hơi thở hơn.
Chỉ
khi nào luyện tất cả các đề mục của Định
Niệm Hơi Thở, nhiếp tâm và an trú tâm được có kết quả chắc chắn, ổn định
thì mới bắt đầu luyện 4 Niệm Xư, lúc
đó chỉ ngồi thư thả bình thường để đẩy lui chướng ngại pháp. Sau khi đẩy lui hết
tất cả chướng ngại thì lúc đó mới thực sự luyện Thân Hành Niệm để có 10 thần
lực xuất hiện ra.
11.- Thân Hành Niệm: Thần
Thông
D.- ĐỊNH THƯ GIÃN (XẢ TÂM)
Giới Thiệu
Mục đích của đạo Phật là tâm hoàn toàn xả. Xả tâm là phải tùy thuận với hết mọi hoàn cảnh, mọi
sự việc dù trái ý nghịch lòng.
Điểm
quan trọng nhất của người tập luyện tâm bất động của Định Bất Động Tâm là pháp xả tâm trong giờ nghỉ giữa hai pháp tu.
Cái
tâm suy nghĩ, sai sử chính là chướng ngại
pháp. Mình cứ đẩy lui những cái này đi, nó làm cho mình không vô sự.
Thật
sự không cần phải tập luyện pháp gì
khác mà tối ngày giữ mình là người vô sự, không làm gì hết, cứ ngồi mà xả tâm thôi. Niệm gì khởi
lên cũng xả hết, riết rồi mình có cái lực khiến cho đủ cả 7 Giác Chi xuất hiện.
Thầy gọi là xả tâm, còn đức Phật nói
là “Đẩy lui chướng ngại pháp”.
Cách giữ tâm vô sự
Khi
niệm nào sai bảo làm gì thì nhất định không làm. Không làm theo niệm khiến làm tức là
li dục. Trong giờ thư giãn, không có niệm gì hết là tốt.
Tập luyện Định Thư Giãn thì phải khéo léo để thân tâm trả về trạng
thái bình thường của nó là đúng, đừng để bị lôi vào trong các pháp khác.
Cách Thực Hành Tu Tập
Tác ý khi đi kinh hành cũng như trong lúc ngồi:
"Tâm phải sáng suốt như ban ngày, tâm phải thanh thản, vô sư".
“Đầu
óc phải thư giãn, không được tập trung chỗ nào hết, phải tự nhiên, hồn nhiên với
vạn pháp”.
Thư Giãn thì phải làm như mình không biết tập
luyện là gì hết, phải xả ra. Thư giãn là nghỉ ngơi, phải để thân và tâm hoàn
toàn nghỉ ngơi.
Định Thư Giãn Là Tiền Thân
4 Niệm Xứ
Xả Tâm Trong 4 Niệm Xứ