Thứ Năm, 17 tháng 10, 2024

BẬC BA MINH DẠY LUYỆN TĨNH GIÁC

TĨNH GIÁCTỈNH THỨC nhấn mạnh đến hai giai đoạn tu tập:

- Tĩnh giác là giai đoạn từ tâm loạn động được chế ngự để được yên tịnh theo dõi và biết rất rõ ràng từng chi tiết nhỏ, biết rất kỹ lưỡng, biết không mờ mịt một chút xíu nào về đối tượng đang tu tập. Đây là mục đích chánh của giai đoạn Tứ Chánh Cần, là đối tượng của tập sách này.

- Tỉnh thức là trạng thái tâm tĩnh giác mà bất động không có pháp nào khác ngoài tâm bất động này, được phòng hộ để chủ động sự sống chết, chấm dứt luân hồi. Chỉ khi đã tĩnh giác mới TỈNH THỨC, lúc đó tâm hoàn toàn tỉnh táo trong trạng thái thanh thản an lạc vô sự, mới đủ khả năng để tu tập đúng pháp môn 4 Niệm Xứ.

PHẦN THỨ NHẤT

CHUNG VỀ PHÁP HÀNH CƠ BẢN

Trong lúc tu tập, pháp của Phật muốn cho không có vọng tưởng thì người ta dẫn tâm vào chỗ không có vọng tưởng, đâu cần phải ức chế tâm.

Mục đích chánh của giai đoạn đầu này là cần tập thành thục thân hành nội tức ngồi tập chú ý vào hơi hít thở và thân hành ngoại tức khi đi thì chỉ lưu ý bước đi.

HIỂU BIẾT TRONG KHI TẬP

1.- Thiện Xảo Vừa Sức

Phải thiện xảo đối với mỗi pháp môn mà căn bản là đừng để tâm phóng dật

2.- Đúng Với Trạng Thái Thân Tâm

Phải biết các trạng thái thân tâm như thế nào để biết tâm lí mà tập luyện. Tập luyện mà không thấy chán thì được.

3.- Kiểm Điểm Kết Quả

Sau một thời tu tập cần kiểm điểm lại xem, dù kết quả nhỏ tuy thế nó vẫn sách tấn nhiều. Có thấy tiến bộ sẽ làm con tích cực tập luyện, ham tập luyện.

4.- Lắng Tâm Thanh Tịnh

5.- Xác Định Đặc Tư?ng

Tùy theo đặc tướng của từng người mà ngồi nhiều hay đi nhiều.

6.- Tập Luyện Đúng Đặc Tướng

7.- Pháp Chế Ngự, Pháp An Trú

Tập luyện bất kỳ pháp nào cũng lấy sự chế ngự làm cách thức chánh. Tập luyện thái quá là ức chế.

Pháp Phật tập luyện đúng rồi thì năng lượng ngày càng được sung mãn. Xả ra, thấy trong người khoẻ khoắn thích thú, mà trong khi tập luyện thì được an vui, an lạc. Căn bản là ngay từ lúc đầu tập luyện phải biết cách chế ngự cho đúng, đừng rơi vào ức chế mà cho là chế ngự.

Hãy thực hiện tập luyện cho thuần thục hai phần nhiếp phục tâm và an trú tâm. An trú thì phải có an trú thật sự. Ngay cả muỗi châm đốt mà mình cũng không hay nếu đang trong lúc an trú.

8.- Vọng Niệm

Nhiếp tâm là khi tâm hoàn toàn không có một niệm nào khởi. Vậy thì khi đi kinh hành hay khi ngồi luyện Định Niệm Hơi Thở phải làm sao cho đạt tới kết quả không niệm trong thời gian 5 phút.

Phải suy nghĩ tại sao cố gắng nhiếp tâm trong 5 phút mà còn có niệm xẹt? Như vậy là pháp tác ý đang còn yếu đây, phải trở lại pháp tác ý “Tâm như cục đất, li hết tham sân si đi!”. Phải trở về tập luyện cái nào nhiều nhất? Hãy tác ý “Li tham hết đi! Li sân hết đi! Li si hết đi!”. Tác ý thêm “Đi kinh hành tôi biết tôi đi kinh hành”, rồi mới đi..

Niệm khởi là do bởi tâm còn tham sân si. Roi trong khi đi co niem khởi, đứng lại tác ý li tham sân si nữa. Tác ý li tham sân si càng nhiều càng tốt. Đang đi mà có niệm thì đứng lại tác ý. Cứ luyện riết một thời gian sau sẽ hết niệm là do chính xả tâm tham sân si.

9.- Tâm Còn Tham, Sân, Si

Muốn biết tâm còn hay hết tham sân si thì xét xem trong bữa ăn có còn muốn ăn cái gì, thèm ăn cái gì không.

Tâm sân thì có những đối tượng khác để biết tâm sân còn hay hết. Thí dụ bị một con kiến cắn, nhưng vẫn thương nó là hết tâm sân.

Tâm si chỉ hết khi nào hết buồn ngủ, hết ngủ gật, hết lười biếng; còn buồn ngủ, còn lười biếng là còn tâm si.

Muốn biết tâm tham sân si còn hay không thì phải tĩnh giác quan sát lại nơi chính mình.

Khi biết được tham, sân, si là ác pháp thì nương Tứ Chánh Cần để ngăn và diệt các ác pháp. Muốn ngăn và diệt ác pháp thì đức Phật trang bị cho ta phương pháp Định Niệm Hơi Thở là pháp môn đầy đủ để khắc phục được tham, sân, si. Do vậy, tập luyện pháp Định Niệm Hơi Thở để giúp tâm không còn tham, sân, si.

10.- Hơi Thở Có Chướng Ngại

Nếu bị chướng ngại hơi thở, mặc dù còn nhẹ, thì phải xả hơi thở, đừng tập luyện nó nữa, để tránh các nguy hại khi bị rối loạn hơi thở thật sự.

Nếu thấy hơi thở có sự khác lạ thì nên ngồi kiết già mà đưa tay ra, đưa tay vô và theo dõi kỹ chuyển động vô ra của cánh tay. Khi cánh tay đưa vô hít vô; khi cánh tay đưa ra thở ra, nhưng chỉ theo dõi cánh tay chuyển động mà không lưu ý hay điều khiển hơi thở. Hãy nhiếp tâm vào chuyển động của cánh tay.

VẤN ĐỀ TÁC Ý

1.- Tác Y

Cách thức tác ý phải như thế nào để năng lực của câu tác ý phát triển, tăng trưởng cao, chứng đạt được kết quả? Chìa khóa chính của vấn đề là chỉ khi nào tâm được an trú thì năng lực của câu tác ý hiện khởi rất nhanh. Tâm an trú có trạng thái an trú hiện ra. Nhưng trạng thái an trú chỉ hiện ra sau một thời gian tập luyện lâu dài và từ khi nó hiện ra cho đến khi tâm an trú được trong trạng thái đó thì cũng phải tập luyện một thời gian khá lâu nữa. Khi đã an trú trong trạng thái đó rồi, nếu muốn cái gì thì chỉ cần tác ý hướng tâm, lực tác ý sẽ thực hiện điều đó nhanh chóng. Tâm lúc bấy giờ rất thanh tịnh.

Có tập lắng nghe thì nó mới xuất hiện ra trạng thái an tịnh thật. Chừng khi có trạng thái an tịnh rõ ràng thật mới được xem câu tác ý an tịnh có kết quả. Tác ý an tịnh là làm cho tâm trú vào cái an ổn của thân. Khi tâm đã an trú vững vàng rồi thì bắt đầu từ lúc này tập qua các đề mục sau (từ đề mục 6 trở đi) sẽ dễ dàng.

Tu tập Định Niệm Hơi Thở khi tác ý li tham, hay li sân, hay li si, mỗi cái LI thì hít vô và khi thở ra thì cảm nghĩ như có tâm tham, hay tâm sân, hay tâm si theo hơi thở mà đi ra. Có cảm tưởng như thế. Tập luyện như vậy thì mới có kết quả thực tế, chứ còn tác ý mà không có cảm tưởng gì hết thì không ích lợi gì đâu. Đây là tập luyện phải dùng tưởng một ít. Vậy mà ta hết tham, sân, si.

Kinh Hành Tĩnh Giác khi nhiếp tâm xong thì tác ý mỗi bước ₡An?, ₡Tịnh?. Sau khi trang thai an tịnh hiện ra rồi thì tác ý ₡An – Tru?. An la trang thai cua thân, còn trú là trạng thái của tâm trú vào sự an ổn đó, không còn bung ra, không còn phóng dật. Đây là tâm định trên thân, là tâm trú trên thân yên ổn của nó. Nếu thân không yên ổn, không an thì tâm chỉ trú một lúc lại bung ra.

Khi nào thì thay câu tác ý ₡An, Tịnh? sang cau tác ý ₡An, Trú? trong khi kinh hanh? - Bắt đầu, tác ý từng bước đi. Bước thứ nhất ₡An?, bước thứ hai ₡Tịnh?, cứ vậy tác ý ₡an – tịnh?; ₡an – tịnh?... Luc đau mới tap thì chỉ dung no đe nhiep tâm thôi, tác ý theo bước chân để đừng có vọng tưởng. Thí dụ khi đi kinh hành lâu thì có vọng tưởng cho nên dùng câu tác ý theo từng bước để nhiếp tâm, cũng như cái lệnh theo từng bước. Đây là ta luyện Định Diệt Tầm Giữ Tứ trong khi đi để vọng tưởng hoàn toàn không vô.

Còn nếu vừa mới bước đi mà nghe nó khởi nói tự động an-tịnh – an-tịnh thì phải dừng lại, không tác ý nữa, nhưng lắng nghe sự an tịnh trong thân trong khi vẫn đi 5, 10 bước đi chứ không thì thành thói quen cứ tác ý trong đầu ₡an-tịnh – an-tịnh? moi khi bước đi. Như vậy không được, sai rồi. Nó làm động

An trú tâm chỉ có khi không được có niệm vọng tưởng. Còn vọng tưởng thì chưa thể có an trú tâm được..

Cần phải tập cho tới chỗ tâm bất động, tức phải đạt cho được sự bất động tâm.

2.- Phương Pháp Như Lý Tác Ý

Có 3 giai đoạn:

Giai đoạn thứ nhất của Như Lý Tác Ý là dẫn tâm vào trạng thái giải thoát. Dẫn tâm là tâm đang ở môi trường ác, đưa nó, dẫn nó vào môi trường thiện.

Giai đoạn thứ nhì của Như Lý Tác Ý là hướng tâm, là tâm hoàn toàn thiện rồi hướng nó đi vào hướng nào thì nó làm việc theo hướng đó. Không phải tâm còn ác mà hướng. Hướng như vậy sẽ hướng tâm ác hết.

Muốn được như thế thì phải phân biệt rõ ràng giữa pháp dẫn tâm và pháp hướng tâm

Pháp dẫn tâm thứ nhất là tự kỉ ám thị: tác ý một câu mà hoàn toàn như là không có đối tượng nào hết. Thí dụ tâm trong lúc không có tham, sân, si, đang sáng suốt, không ham muốn gì hết mà tác ý “Tâm như cục đất; li tham, li sân, li si hết đi!” thì đó là dẫn tâm, dẫn tâm vào chỗ không tham sân si.

Pháp dẫn tâm thứ hai là nó đang ở chỗ tham sân si mà nhớ và nhắc để nó hết bị tham, sân, si chi phối. Khi nhắc như vậy thì tâm có ý thức để giải trừ khỏi trạng thái tham, sân, si đang có.

Pháp dẫn tâm thứ ba: Khi tác ý theo từng hành động của thân thì đó không phải là pháp dẫn tâm nữa mà là truyền lệnh. Thí dụ ra lệnh bảo ₡Cánh tay mặt đưa lên!? thì canh tay đưa len. Đây chính là pháp Như Lý Tác Ý.

Còn các pháp tự kỷ ám thị vừa nói trên chỉ được gọi là pháp Tác Ý. Pháp Tác Ý là pháp không có hành động của thân tâm ngay tức thì.

Cả ba pháp này đều được gọi là pháp Dẫn Tâm: dẫn tâm vào Đạo và dẫn tâm theo lệnh. Dẫn tâm vào Đạo (Tác Ý) có năng lực thấp hơn dẫn tâm theo lệnh (Như Lý Tác Ý).

Giai đoạn thứ ba là giai đoạn đủ 7 Giác Chi xuất hiện thì đây gọi là giai đoạn Hướng Tâm. Hướng tâm nhập 4 Thánh Định, hướng tâm thực hiện ba Minh. Chỉ khi có sự xuất hiện đủ 7 Giác Chi mới hướng tâm được; nếu 7 Giác Chi chưa xuất hiện đủ thì đừng mong hướng được tâm. Như vậy Hướng Tâm chỉ thực hiện trong giai đoạn này và dùng trong hai nhiệm vụ chính yếu của sự giải thoát theo Phật Giáo: nhập 4 Thánh Định và vào 3 Minh.

pháp môn Như Lý Tác Ý3 giai đoạn tập luyện, phải thực hiện tập luyện cho đủ cả ba giai đoạn: giai đoạn Tác Ý, giai đoạn Như Lý Tác Ý và giai đoạn Hướng Tâm. Cả ba giai đoạn của pháp Như Lý Tác Ý đều áp dụng trên pháp 4 Niệm Xứ cũng như trên pháp Thân Hành Niệm.

Tóm lại: pháp môn Như Lý Tác Ý đầu tiên là ám thị, kế là Như Lý Tác Ý là tác ý hành động nào thì thân làm ngay hành động đó theo lệnh ý thức đưa ra. Ám thị là tác ý tâm mình, như “Tâm như cục đất, li tham sân si!” hay “Tâm phải vô ngã, xem thân này không phải của ta!”. Đó là những pháp tác ý mà ám thị.

Như lý Tác Ý là tập luyện trên pháp THÂN HÀNH. Nó tác ý trên hành động của thân, luyện cái thân, còn ám thị là tập luyện trên pháp TÂM HÀNH, nó tác ý về cái tâm, luyện cái tâm. Hai cái này phải liên tục tập luyện, đừng có lơi.

Bên cạnh tác ý thì phải khéo léo dùng tưởng nữa. Thí dụ như ₡Quán li tham...? thì khi nương vào hơi thở tưởng như hơi thở đi ra mang theo bao nhiêu cái tham, sân, si đi hết ra theo.

Phải luôn luôn tập tác ý. Tập riết thì sẽ trở thành thói quen. Phải tập cho trở thành thói quen tác ý. Sau đó mỗi bước đi thì chân bước đi nhưng cảm giác tham sân si li ra. Tác ý như vậy mà THẤY nó lìa ra chứ không phải chỉ lưu ý bước đi thôi, PHẢI CẢM NHẬN như có cái tham trong lòng mình ra theo bước chân.

HẠNH ĐỘC CƯ

1.- Sống Độc Cư

Chính độc cư là pháp để giữ gìn mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý cho tâm không có niệm. Do đó pháp phòng hộ các căn mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý là thiện xảo sống trong định. Chỉ độc cư mới là phương pháp đúng để phòng hộ sáu căn, mới là thiện xảo sống trong định.

Khi chỉ còn nghe thấy trong tâm thôi, không nghe thấy gì bên ngoài thì đó là độc cư trọn vẹn, chứ không phải gói mình trong phòng mới gọi là độc cư.

Muốn cho 6 căn hướng nội thì phải tác ý hằng ngày để dẫn nó vô, chứ không thì nó luôn luôn chạy ra.

2.- Hạnh Độc Cư Là Phương Pháp Chế Ngự

Hạnh độc cư có 3 giai đoạn tập luyện

Hạnh độc cư chỉ là phương tiện để phòng hộ tai, mắt, mũi, miệng, thân, ý. Pháp độc cư là để phòng hộ sáu căn, qua đó giúp cho tâm không phóng dật. Chính nhờ tâm không phóng dật mà đức Phật thành đạo quả. Cần lưu ý các danh từ đức Phật dạy ₡chế ngự? và ₡ức chế?. Che ngự la lam giảm bớt lại từ từ cho tới khi đi đến chỗ hoàn toàn phòng hộ được tai, mắt, mũi, miệng, thân, ý.

Nghĩa là mọi lần khi chưa tập luyện, ngồi rồi nghĩ lung tung, nhưng hôm nay nghĩ ít hơn, rồi lần lượt ít hơn nữa. Đó là phương pháp chế ngự.

Giai đoạn đầu này rất khó, không được ức chế tâm mà chỉ chế ngự. Tức là lúc đầu mới vào 5, 3 phút có thể không có niệm khởi, nhưng sau đó thấy tâm có khởi niệm. Dù vậy, cứ để mặc nó. Có niệm thì có niệm chứ đâu hại gì. Niệm đến thì để nó đến, niệm lui thì để nó lui; chỉ cần tập luyện đúng pháp để nhiếp phục tâm thôi. Như vậy cách thức và phương pháp mà đang tập luyện là chế ngự tâm. Không cố gắng tập trung nên không bị nặng đầu, nhức đầu, hoặc căng mặt. Đó là không ức chế. Không sai. Pháp ở đây là tâm không lay chuyển trước mọi niệm. Trong khi tu 4 Niệm Xứ thì cũng sống với thiện pháp, giữ tâm thanh thản an lạc vô sự, khi có ác pháp thì dùng Định Niệm Hơi Thở đẩy lui.

3.- Muốn Sống Độc Cư Thì Phải Suy Xét Hoàn Cảnh

Giữ độc cư là sống theo pháp tu hành để tâm không còn phóng dật.

4.- Sống Độc Cư Để Giữ Gìn Năng Lượng

Khi còn khởi niệm suy nghĩ gì thì lúc đó phải sử dụng năng lượng nên năng lượng bị tiêu hao. Khi nào thân và tâm được an trú, tức không phóng dật thì năng lượng không bị tiêu hao mà lại được tăng trưởng. Vì thế, những người tập luyện thông suốt đến cuối cùng thì người ta không buồn ngủ là vì năng lượng được bổ sung đầy đủ trong khi luyện tập, chứ không thì buồn ngủ phải sinh.

5.- Hạnh Sống Và Pháp Môn Tập Luyện

Khi hạnh sống chưa đúng nhưng pháp tập luyện đúng để li dục li ác pháp thì cũng an trú được. Nhưng sự an trú không kéo dài. Làm sao li dục li ác pháp để sau khi li hết dục và ác pháp thì sẽ an trú trong một tâm không có niệm khởi, không phóng dật, không phóng tâm.

Khi dù có hạnh sống đúng mà pháp tập luyện không đúng để li dục li ác pháp thì hạnh đó bị ức chế, không li dục được. Dục bị ức chế.

Khi hạnh sống đúng, tập luyện pháp đúng thì sự an trú ngày càng được kéo dài, tăng dần lên cho đến khi đúng mức thì 7 Giác Chi xuất hiện. Khi 7 Giác Chi xuất hiện sẽ giúp kéo dài sự an trú ra được 12 tiếng đồng hồ. Luyện một thời gian cho kéo dài lên 24 tiếng_ một ngày đêm. Khi kéo dài sự an trú lên 24 giờ được, thì kéo dài an trú suốt một tuần lễ cũng sẽ được, không còn khó khăn gì nữa. Làm được vậy là chứng Đạo, là tu xong.

Con đường tập luyện để thân tâm thanh tịnh thì nương vào giới hạnh và giới hành. Nương cả hai.

Muốn sống trong an trú được thì phải hoàn toàn độc cư, nhờ vậy tâm li dục li ác pháp hoàn toàn cho đến khi hoàn tất các pháp tập luyện. Tâm li dục li ác pháp được thành tựu, được an trú thì hoàn tất đường tập luyện.

Hai kết quả đầu tiên phải tranh thủ đạt cho được, bắt buộc phải tạp cho được ở giai đoạn độc cư thứ nhất đó là nhiếp phục tâm và an trú tâm trong hơi thở và trong kinh hành. Chỉ hai cái này thôi vì chúng sẽ đi kèm với các pháp tu tập khác. Mười chín đề mục Định Niệm Hơi Thở là đủ hết các pháp để tập luyện. Mỗi đề mục cần phải tập luyện cho đạt được các kết quả mới đủ năng lực để đẩy lui các chướng ngại pháp trên thân tâm, tức là các ác pháp, vì thế con nên tập luyện thật kỹ. Độc cư là điều kiện giúp tập luyện thành công 19 đề mục Định Niệm Hơi Thở, nhất là khi giữ giới không ăn phi thời thì li dục được.

6.- Xưa, Tỳ khưu Khất Thực – Độc Cư

NHIẾP TÂM – AN TRÚ TÂM

1.- Điều Kiện Nhiếp Tâm – An Trú Tâm

Giai đoạn này tập luyện để đạt cho được sự tĩnh giác trong chánh niệm, nghĩa là nhiếp tâm trong hơi thở, trên bước đi kinh hành và trong Thân Hành Niệm. Nhiếp cho được, đừng để bị thất niệm, tức là đừng quên. Quên không theo dõi hơi thở hay bước đi hay thân hành một tí xíu thôi thì cũng là bị thất niệm rồi. Đây chỉ là giai đoạn tập luyện để được tĩnh giác và nhiếp được tâm vào trong niệm của thân hành để có được niệm thôi.

Khi nhiếp được tâm trong niệm của thân hành, rồi sau đó mới tập làm sao để an trú tâm trong niệm thân hành. Nghĩa là tập để tâm nhiếp được vào trong hơi thở, rồi làm sao cho tâm được an trú trong hơi thở. Tức làm cho cả thân và tâm được an trú. Để đạt được điều này thì phải tập luyện trải qua 2 giai đoạn: một là nhiếp phục tâm, hai là an trú tâm. An trú không có nghĩa là giữ đừng cho có niệm kéo dài trong thời gian thật dài. Không phải vậy. Khi biết hơi thở hít vô thở ra mà cảm thấy toàn thân an ổn vô cùng thì lúc đó là đã an trú trong hơi thơ

Nhưng muốn an trú tâm kéo dài ổn định thì điều kiện là đời sống phải sống cho đúng giới luật.

Bây giờ cần nhớ kỹ việc tập luyện chính của là nhiếp phục tâm trong hơi thở hay trong bước đi kinh hành và an trú cho được thân và tâm vào trong hơi thở và trong bước đi, chỉ cần 5 phút. Không phải nhiếp phục được tâm kéo dài trong 1 giờ, hay 2, 3 giờ là để cho hết vọng tưởng. Không phải vậy. Chỉ vào tới Lậu Tận Minh mới hết vọng tưởng.

Khi nhiếp phục và an trú tâm được rồi thì bắt đầu từ đó sự tập luyện sẽ phát sinh ra năng lượng, không còn bị hao hụt năng lượng nữa. Lúc đó nó sẽ tự động làm cho giảm giờ ngủ lại, tăng giờ tập luyện lên.

Cho nên cần tập luyện từng hơi thở cho có chất lượng. Làm sao trong 5 phút phải nhiếp phục và an trú tâm cho được. Nếu sau 5 phút mà chưa nhiếp phục và chưa an trú tâm được thì cũng tạm ngưng vài phút, rồi lập lại tập 5 phút khác. Đừng tập luyện liên tục li?n 30 phút. Có hại, không có lợi. Khi đã nhiếp phục và an trú tâm được trong từng hơi thở thì nối kết dần từ hơi thở này đến hơi thở tiếp sau liên tục từ một phút tới lâu nhất là 30 phút thôi, không vượt qua thời gian này.

2.- Mục Đích Nhiếp Tâm Và An Trú Tâm

Mục đích nhiếp tâm và an trú tâm để làm gì? – Đó là khi nhiếp tâm và an trú tâm được thì mới đẩy lui được chướng ngại pháp trên 4 chỗ thân, thọ, tâm, pháp, tức là đủ năng lực để chuyển qua tập luyện 4 Niệm Xứ. Nếu chưa có khả năng an trú tâm này thì hãy khoan, đừng tập luyện 4 Niệm Xứ.

Khi bắt đầu tập luyện thì trên thân tâm thoải mái không có gì. Nhưng đến khi ngồi bị muỗi đốt, hay tê chân, hay đau tay thì đó là bị ác pháp rồi. Khi đó phải khắc phục đẩy nó ra, không được để trên thân, thọ, tâm, pháp của con. Nhưng nếu không có năng lực do nhờ luyện Định Niệm Hơi Thở thì không đẩy lui được. Buộc lòng phải tập luyện Định Niệm Hơi Thở cho đạt kết quả trước. Muốn tập luyện Định Niệm Hơi Thở thì phải luyện Chánh Niệm Tĩnh Giác. Muốn tập pháp tĩnh giác đó thì cần phải đi kinh hành.

3.- Cách Tập Nhiếp Phục, An Trú Tâm

Chữ an trú trong kinh và sự an trú trong các pháp tập luyện có ý nghĩa như thế nào? Cụ thể là trong Kinh Hành Tĩnh Giác sự an trú là sao, làm thế nào để không bị ức chế?

An trú vào hơi thở không có nghĩa là ngồi xuống rồi hít thở ngay liền. Đó chỉ là biết hơi thở. Đi mà tập trung hết tâm ý vào bước đi để các niệm không có thể khởi ra là đang hoạt động nhiều. Đó chỉ mới trú mà chưa an.

Đây là điểm mà đức Phật dạy là thiện xảo an trú. Khi đi biết bước chân đang đi là TRÚ chứ chưa an. Phải AN TRÚ mới đúng nghĩa. Đầu tiên phải trú cho được, sau mới tới an. Trú tức là cái tâm ở trong niệm kinh hành hoặc hơi thở, tức là nhiếp tâm vào bước đi hay hơi thở. Khi ngồi hay đi mà chốc lại có niệm này, chốc lại có niệm kia, tức là không trú được, chưa trú được. Nó phải nhiếp, phải ở được một thời gian cần thiết mới có trạng thái yên ổn, tức an trú.

Ngồi yên lặng cho thân yên ổn rồi quan sát tâm thấy cũng yên tịnh, một lúc độ 3 – 5 phút, giữ cho thân tâm đều an, không có gì hết, sau đó tác ý để cho tâm nhiếp vào trong hơi thở thì nó sẽ an trú vô trong hơi thở. Tức ngồi giữ thân bất động, giữ tâm không niệm khởi, rồi tác ý an trú. Phải biết và nhớ điều này. Đó là cách an trú. Khi mới vô ngồi thì giữ tâm dễ lắm, chưa có vọng tưởng đâu. Còn nếu vừa ngồi xuống, tâm còn lăng xăng mà đã lo chú tâm hít thở thì tâm không nhiếp được, không an trú được.

An trú đúng thì có trạng thái an lạc, trạng thái của sự an trú. Không phải ngồi yên là có sự an trú. Ngồi yên chỉ có sự yên ổn thôi. Cho nên nói an trú trên hơi thở hay an trú trên thân hành thì trước tiên phải làm cho thân tâm an tịnh hoàn toàn, rồi mới vào an trú được.

Khi đi Kinh Hành Tĩnh Giác, nếu có tạp niệm xen vào nhiều, đã sử dụng câu tác ý “An tịnh tâm hành tôi biết tôi đang đi” thì đúng rồi. Đó là những câu mà đức Phật trang bị sẵn để khi tâm không an dẫn cho nó an, tâm không tịnh dẫn cho nó tịnh.

4.- Tinh Tấn Tập Luyện

Vừa tập luyện xong Định Niệm Hơi Thở thì chuyển qua Định Thư Giãn để có thời gian nghỉ ngơi, rồi Chánh Niệm Tỉnh Giác, rồi Định Thư Giãn lại. Khi đã ấn định thời gian 30 phút cho mỗi pháp thì chỉ tới 30 phút thôi, không nên vượt quá.

Khi tập luyện không chấp nhận thọ nào, dù là thọ lạc, là thọ khổ, mà phải giữ đúng pháp, ôm pháp. Thông thường nhiều người bữa nào tốt, tập luyện khoẻ thì họ hay tăng giờ lên, bữa nào dở thì giảm xuống. Như vậy không nên. Dù tập luyện tốt lành hay yếu dở cũng phải ráng giữ cho đúng giờ. Đừng nghĩ rằng khi tốt lành thì tập luyện thêm là có lợi ích. Không phải vậy đâu. Chừng nào con thấy đủ sức tăng lên thì mới tăng lên cho tất cả mọi thời tu. Phải chủ động điều khiển tập luyện trên pháp.

5.- Phải Tĩnh Giác Trong Khi Tập

Muốn được lúc nào cũng tĩnh giác thì phải lúc nào cũng nhiếp phục được tâm trong thân hành nội là hơi thở, và trong thân hành ngoại là hành động của tay, chân, thân hình. Để được vậy thì phải luyện sự an trú tâm trong thân hành đạt chất lượng ít nhất phải trong 30 phút, Sau đó khi xả ra và trong sự phòng hộ của con thì đó là tỉnh thức, có nghĩa là khi có TĨNH GIÁC mà được phòng hộ thì đó là TỈNH THỨC, tức là khi áp dụng 3 cái Thánh: Thánh Giới Uẩn, Thánh Phòng Hộ Các Căn, Thánh Chánh Niệm Tĩnh Giác, đó là Thánh Tỉnh Thức.

Trạng thái tĩnh giác sẽ phát sinh khi tập luyện với cái biết thật rõ, thật tỉnh táo, đầy đủ ý thức. Phải dùng tối đa sức cảm biết trong ý thức sáng suốt để tập luyện. Ban ngày tập luyện như thế nào thì ban đêm như thế ấy.

Mức độ tĩnh giác càng cao thì khi tập luyện các động tác diễn tiến càng chậm hơn.

6.- Suy Tìm Đạo Lý

Đâu phải tập luyện Chánh Niệm Tĩnh Giác chuyên suốt hoài được. Sau khi xả ra thì bắt đầu suy tìm đạo lý. Ngồi mà tư duy, bởi tư duy giúp triển khai tri kiến, làm cái biết được thực hiện trên đạo đức. Triển khai tri kiến ra mới thấy được cái sai cái đúng từ xưa tới giờ nó như thế nào. Thấy cái sai thì cố gắng khắc phục.

7.- Luyện Thân Tâm An Tịnh

Khi muốn cho thân an tịnh thì làm sao? Tịnh có nghĩa là thanh tịnh, còn an là an ổn. Giai đoạn này chỉ tập luyện để có trạng thái an tịnh của thân, chưa đến giai đoạn an tịnh của tâm.

An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô; an tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra”. Tác ý như vậy để làm gì? – Để khi hít vô lắng nghe thân có an tịnh hay không, chứ không phải cái an tịnh ở đâu bên ngoài đến với thân. Không phải nó đến mà tự lắng nghe thấy rõ ràng thân có an thật sự, không động đậy, không nhúc nhích chỗ nào hết. Tịnh là yên lặng mà thanh tịnh, tức là không bị động chút nào hết, hoàn toàn yên lặng. Đó là thân vừa an mà vừa tịnh, không bị chướng ngại gì hết

Do đó khi hít vô lắng nghe theo hơi thở thì thấy thân an; thở ra cũng như hít vô, thấy thân an. Lắng nghe đủ 5 hơi thở, tác ý lại lần nữa. Lắng nghe để xem thân an tịnh. phải tập luyện từng hơi thở và lắng nghe. Nếu có được hơi thở dài thì dễ đủ thời giờ lắng nghe toàn thân hơn.

Trạng thái an của thân khi lắng nghe được rồi thì khi nhiếp vào hơi thở nó sẽ rất an tịnh. Rất an tịnh có được rồi thì sự lắng nghe sự an tịnh đó làm cho tâm gom rất mạnh, tức là nhiếp phục tâm. Chỉ khi an tịnh có được rồi thì thân mới có cảm giác im lặng mà sáng tỏ, lại yên ổn. Lúc đó thấy thân khoẻ khoắn lạ thường, không có một chút gì gọi là mỏi mệt, dù ngồi bao lâu hay ngồi cả ngày đi nữa cũng không có dấu hiệu khó chịu nào, mà chỉ thoải mái dễ chịu thôi. Khi đó không có cảm thọ nào trên thân đánh mình được. Đó là trạng thái hoàn toàn an trú trong sự an ổn của thân.

Nếu tập luyện mà không chịu lắng nghe sự an tịnh tức là sự thanh tịnh an ổn trong thân (cũng như sự thanh tịnh của tâm) thì – mặc dù chúng có đó – nhưng do con không nhận ra, hay không biết được sự an ổn thanh tịnh đã hiện khởi, nên chúng bị mờ nhạt và biến mất, hay chúng không hiện khởi trong thân cho con tập luyện. Còn cố công lắng nghe, từ phút này qua phút khác thì càng ngày sự an ổn thanh tịnh càng hiện ra. Chúng là những cái cần thiết phải đạt cho được trước khi có thể li dục li ác pháp. Nhờ có chúng, tức sự thanh tịnh an ổn trong thân và sự thanh tịnh của tâm, cho nên khi cảm thọ đến thì làm chủ cảm thọ được.

Khi tập luyện được vậy rồi, tức là không còn dính mắc sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp nữa, thì đương nhiên có sự an trú. Có được sự an trú thì lúc bấy giờ không còn buồn ngủ bởi vì buồn ngủ là sự an trú của dục. Ăn mà có sự an trú của dục mới tìm sự ăn ngon. Ngủ mà có an trú của dục mới tìm cầu ngủ nghỉ.

Người nào an trú được thì họ sống một mình thôi, còn ai chưa thì họ phải đi tìm dục lạc, họ đi nói chuyện này kia. Đó là vì không an tru

8.- Thất Niệm.

Trên thân có ác pháp mà tác ý đẩy lui thì không phải thất niệm, vì ta chủ động. Còn khi đang ngồi tập Định Niệm Hơi Thở, bỗng dưng có một niệm khởi thì niệm theo dõi hơi thở bị gián đoạn, bị mất thì đó là thất niệm, thất cái niệm đang tập luyện.

Điều quan trọng là làm sao tập nhiếp tâm và an trú tâm trong hơi thở cho quen. An tịnh được mới tới an trú.

Chưa hoàn mãn Chánh Niệm tức chưa sung mãn 4 Niệm Xứ thì đừng mong thực hiện Chánh Định. Pháp 4 Niệm Xứ mà sung mãn được rồi thì phải có năng lực 7 Giác Chi.

9.- Th?i Gi? Luy?n T?p

Tuỳ pháp nào con tập luyện mà được an lạc an trú thì pháp đó tăng dần lên. Còn pháp nào chưa an trú được thì cứ giữ giờ tập luyện cho đến khi được an trú.

Chỉ nâng giờ tập luyện pháp môn nào lên khi trong suốt thời gian tập luyện của pháp môn đó hoàn toàn được nhiếp tâm và an trú tâm, không một phút giây nào bị thất niệm.

10.- Phá Buồn Ngủ, Ngủ Gục

Muốn biết cách phá si như thế nào thì cần phải biết nghĩa và các tướng trạng của các loại ma chướng buồn ngủ (hôn trầm), ngủ mê (thùy miên), mất chú ý (vô ký) và mất ý thức (ngoan không).

11.- Giữ Nghiêm Giới, Giữ Tâm Bất Động

Bí quyết thiền định chính là hạnh sống. Đúng giới mới li dục được. Ăn, ngủ, độc cư, nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng đều chỉ nhắm mục đích li dục.

Tâm Bất Động là đối trước các ác pháp, các cảm thọ mà tâm không giao động, thản nhiên, cho nên gọi là Tâm Thanh Thản An Lạc Vô Sự.

12.- Thánh Giới Uẩn

Giới là ranh giới, là phạm vi. Thánh Giới Uẩn là lấy 5 uẩn làm giới để giữ gìn tâm.

Mục đích trầm lặng độc cư là để tâm không phóng dật. Đó là bí quyết thành công của thiền định.

Tất cả ba cái: Thánh Giới Uẩn, Thánh Phòng Hộ Các Căn và Thánh Chánh Niệm Tĩnh Giác lúc nào cũng đi chung nhau, không thể thiếu một Thánh nào mà đạt thành kết quả được.

13.- Cách Ôm Pháp

Phật không chấp nhận 3 loại cảm thọ: thọ lạc, thọ bất lạc bất khổ, thọ khổ; chỉ chấp nhận pháp mà thôi, tức là sức tĩnh giác trên niệm thân hành của chúng ta.

Và điều quan trọng nhứt cần lưu ý là khi tập luyện thì phải ôm pháp; khi không tập luyện, ở trạng thái bình thường thì phải bình thường.

Khi tâm bình thường mà nó bất động, chứ khi có ôm pháp thì bất động mà khi rời pháp thì nó động là chưa phải thời. Đó chỉ mới tĩnh giác thôi.

14.- Ba Lần Tuôn Trào Tâm

Khi tâm vào 4 Niệm Xứ thì thấy tâm thanh thản an lạc vô sự. Sau đó sẽ trải qua 3 giai đoạn tuôn trào của tam, tức là những niệm ký ức ẩn chứa trong tâm, hiện bày trở lại. Có trải qua tuôn trào tâm thì mới vào được trạng thái kéo dài thời gian liên tục tâm không phóng niệm, không phóng dật. Chưa tuôn trào thì tâm không bao giờ hết phóng niệm phóng dật.

SƠ LƯỢC VỀ BẢY GIÁC CHI

Nhiếp tâm, an trú được, nghĩa là dù chỉ an trú trong một phút thôi hay một giây thôi thì 7 Giác Chi cũng xuất hiện ngay lúc có an trú. Cùng lúc có đủ cả 7 Giác Chi chứ không phải chỉ một. Bằng không thì không an trú được. Không an trú thì không bao giờ có 7 Giác Chi.

Bảy Giác Chi sẽ có lực mạnh chỉ khi nào ta viên mãn đầy đủ 4 Niệm Xứ, chừng đó nó mới xuất hiện Định Giác Chi của Sơ Thiền trở lên.

TUỆ BA MINH

MINH tức là VÔ LẬU. Thiện vô lậu là gì không? Là tâm thanh thản an lạc và vô sự.

DUYÊN ĐỘ CHÚNG SANH

Khi chưa li hết dục thì dục sai mình làm bậy.

SƠ LƯỢC ĐƯỜNG LỐI TU HỌC PHẬT GIÁO

Cắt đứt tham dục ngay liền thì sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng sẽ bị hủy diệt luôn,

Nếu cái căn bản là quán Định Vô Lậu không có, thì ngăn chặn tham dục không nổi, không thấy được tham dục nữa chứ nói chi đến ngăn chặn. Lớp quán bất tịnh phải quán cho xong trước.

Theo pháp Phật thì có: Định Thư Giãn, Định Chánh Niệm Tỉnh Giác, Định Vô Lậu, Định Niệm Hơi Thở. Tất cả đều nằm trên 4 Niệm Xứ.

TÀ THIỀN VÔ SẮC VÀ CHÁNH THIỀN HỮU SẮC

PHẦN THỨ HAI : CÁC PHÁP HÀNH

A.- ĐỊNH NIỆM HƠI THƠ

Luyện đề mục trước có kết quả rồi mới nên chuyển qua đề mục kế tiếp.

Đề Mục 1: Tĩnh Giác Đếm Không Lộn

1.- Giải Thích Căn Bản

Khi tập đề mục 1 của Định Niệm Hơi Thở, chỉ nhắm vào đếm không lộn. Nếu có niệm hiện khởi trong trí, trong tâm thì kệ nó, đừng lưu ý. Tâm chỉ bám vào hơi thở, biết hơi thơ, đếm đủ số 5 hơi, nín thở tác ý. Không quan trọng về niệm mà quan trọng về pháp dẫn, tức pháp tác ý. Mục đích của pháp dẫn hơi thở là đếm đừng lộn, tức là tĩnh giác, chứ không phải ức chế cho tâm hết vọng tưởng.

Niệm vọng tưởng là một sự tự nhiên đối với người mới tập luyện. Có ₡vọng tưởng? hay khong co ₡vọng tưởng? khong quan trong, khong quan he gì. Vọng tưởng có xẩy tới trong khi đếm hơi thở thì khi tác ý chắc chắn vọng tưởng phải bị cắt đoạn, phải bị tiêu trừ.

Tĩnh giác ở chỗ nhớ đếm, và tĩnh giác biết hơi thở vô ra. Hãy để tâm tự nhiên, chỉ giữ đúng 5 hơi thở thì lập lại câu tác ý. Đừng quên nhắc câu tác ý. Quên lập lại câu tác ý thì ý thức bị chìm vào trong tưởng thức, do kẽ hỡ đó Ma Tưởng xen vào.

Cũng không nên đếm kéo dài lên tới 10 hay 20 hơi thở, vì chắc chắn sẽ bị tưởng chi phối. Chỉ chăm chú 5 hơi thở thôi, phải tác ý để hoàn toàn tĩnh giác. Lúc này có hay không có niệm không quan trọng bởi tới đề mục thứ 7 là phương pháp dẫn tâm vào yên tịnh, không niệm khởi.

2.- Thực Hành Tập Luyện Đề Mục 1

Hãy để tâm nhẹ nhàng biết hơi thở vô ra và tập gom tâm.

Ngồi kiết già, gom tâm : Bắt đầu từ từ hít vào một hơi thở chậm, nhẹ và dài, đầy ngực (hơi nâng người lên, không phình bụng). Khi hít vào hết sức thì thở ra cũng chậm nhẹ và dài. Hơi thở nầy nhằm mục đích gom tâm về một điểm và làm cho đầu, thân và lưng thẳng đứng mà không ưởn tới trước hay khòm xuống theo thói quen. Mắt nhìn phớt chót mũi nhưng tập trung hoàn toàn sự chú ý vào một điểm ở nhân trung

Nín thở và tác ý thầm: "Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra". Tác ý xong thì đếm "Một" Tâm phải tỉnh táo sáng suốt biết rất rõ và theo dõi kỹ từ lúc hơi thở bắt đầu đi vô cho đến khi hơi thở đi ra chấm dứt. (gọi là tĩnh giác nhận biết rõ hơi thở vô, ra).

Sau khi dứt hơi thở ra thì đếm ₡Hai? (đem ngay trước khi hít vô), và tiếp tục theo dõi hơi thở đi vô rồi đi ra như hơi thở số ₡Một?. tới ₡Năm?

Lưu y gom tâm biết rõ hơi thở đi ngang qua điểm nhân trung và đếm không lộn. Cứ đếm đủ 5 hơi, tác ý; không quên là đúng.

Nếu thấy câu tác ý dài, phải nín thở lâu, cảm thấy khó chịu thì tuỳ nghi cắt bớt cho ngắn.

Tâm theo dõi kỹ hơi thở đang hít vô, rồi hơi thở đang thở ra, từ lúc khởi động vô, kéo dài cho đến khi ngưng hít vô, rồi bắt đầu thở ra, kéo dài cho đến khi hết thở ra.

Khi thiếu tĩnh giác, bị quên, mới đếm thiếu, đếm lộn, đếm dư.

Khi mới tập thì chỉ nên tập từ 1 đến 5 phút, nghỉ 5 phút rồi tập tiếp.

Khi đang tập hơi thở mà cảm thấy sắp buồn ngủ thì đứng dậy đi. Kinh hành nhưng vẫn giữ pháp môn Định Niệm Hơi Thở.

3.- Tập Hơi Thở Khi Ngồi Bị Buồn Ngủ

Trước khi cơn buồn ngủ tới thì đứng dậy đi nhưng tập thì giống như khi đang ngồi.

Ngồi chỉ là điều kiện để gom tâm cho dễ mà thôi, không phải ngồi để tâm thanh tịnh. Đi hoặc ngồi đều là điều kiện tốt giống nhau để tâm thanh tịnh. Tâm thanh tịnh là do chỗ xả tâm.

Giai đoạn này cần luyện li dục li ác pháp ở trong tâm chứ không phải ở trong thân, cho nên đi hoặc ngồi không là vấn đề quan trọng, mà mục đích làm sao tập gom tâm cho được (tức an trú tâm vào hơi thở). Khi tập luyện tới thân thì giới là định, lúc đó con cần dừng một hành nào đó của thân. Thí dụ hành thân thuộc về tầm tứ, giờ muốn dừng nó thì mắt, tai, mũi, miệng không được hoạt động nữa. Pháp đó thuộc về thân thì bắt buộc thân phải ngồi, chứ thân đứng hay đi thì không làm sao tu tập được. Hành dừng thì thân làm sao đi được. Còn bây giờ pháp tu tập là cái tâm, đi thì cũng tập luyện cái tâm, con ngồi thì cũng tu tập cái tâm. Cứ ôm đúng pháp mà tu tập, khi đi cũng giống như khi ngồi. Cần phải tĩnh giác trong khi tập luyện.

4.- Phá Trừ Cảm Giác Tưởng

Trên đường tu tập thấy trong người có hiện tượng gì lạ thì dùng ý thức tác ý cho nó hết. Luôn luôn phải ở trong pháp thôi, còn các trạng thái hỉ lạc, khinh an gì gì, đừng quan trọng với nó. Chỉ ôm pháp thôi, cho tới khi luyện các đề mục tạo ra cảm giác nào mà có cảm giác đó thì mới là kết quả thật của đề mục. Bây giờ con cần biết hơi thở vô và hơi thở ra, cứ 5 hơi tác ý và chỉ biết hơi thở thôi, không biết cảm giác nào khác.

Nếu cứ ngồi yên lặng để gom tâm thì sẽ bị tưởng, không sao tránh khỏi. Đó là tập luyện sai pháp. Khi đã tu tập sai pháp thì bất kỳ lúc nào muốn nhiếp tâm vào hơi thở, tưởng cũng dễ dàng xuất hiện.

5.- Cẩn Thận Khi Tập Luyện

Trong khi tập luyện có chướng ngại thì phải ngưng liền, tìm cách thay đổi cách tu tập. Bất kỳ lúc nào thấy thân tâm không an ổn thì phải ngưng.

Kinh hành thì chỉ có ngoại lực vì đó là pháp môn luyện thân hành ngoại. Tập hơi thở là luyện thân hành nội mới có nội lực. Đường tu tập cần phải kết hợp nội lực và ngoại lực mới thành tựu kết quả.

6.- Điểm Gom Tâm

Giai đoạn đầu cần tập gom tâm, Phải bằng mọi cách làm cho tâm gom được trên tụ điểm nhân trung, sẽ có cảm tưởng như là hơi thở từ đó đi vào thân và từ đó đi ra ngoài.

Khi gom tâm được thì có cảm giác của sự gom này. Có gom tâm được mới có cảm giác. Phải gom tâm cho kỹ, cho chặt vào điểm đó trong suốt 30 phút.

Điểm tại nhân trung chỉ sử dụng để gom tâm theo đề mục 1 và 2 hay 3 của Định Niệm Hơi Thở. Như vậy tập luyện Định Niệm Hơi Thở, tâm không cố định ở một chỗ chung cho tất cả các đề mục. Nó không ở hoài chỗ nào nhưng ta phải nương hơi thở vô ra chứ không phải chỉ biết hơi thở vô ra cho tất cả mọi đề mục.

Khi tu tập Định Niệm Hơi Thở, trong khi ngồi hít thở mà không cảm nhận hơi thở vô ra, không thấy hơi thở nữa, mất hơi thở. Đừng quan tâm tới hiện tượng này. Bằng những câu tác ý, dùng ý thức để lôi nó trở lại không cho tưởng che khuất nữa thì sẽ biết rõ lại hơi thở vô ra

7.- Định Diệt Tầm Giữ Tứ

Nếu bị loạn tưởng, Hít vô thì ra lệnh hơi vô ₡Hít!?; thở ra thì ra lệnh hơi ra ₡Thở!? Đó là thiện xảo nhiếp phục tâm không có một niệm nào xen vô được, bởi khi tác ý liên tục và chú tâm kỹ vào hơi thở như vậy thì không thể khởi niệm khác được. Đây là Định Diệt Tầm Giữ Tứ. Sau khi không còn bị loạn tưởng, lúc đó con bỏ lệnh ₡Hít?, ₡Thở?,

Ý nghĩa Định Diệt Tầm Giữ Tứ là phải giữ TỨ liên tục thì TẦM không vô được.

Đề Mục 2 Và Đề Mục 3: Hơi thở chuẩn là hơi thở bình thường

Khi luyện đề mục thứ 1 thuần thục, đếm hơi thở không lộn trong suốt thời ngồi thiền và thời nào cũng được như vậy là đã đạt được kết quả bước đầu của đề mục 1. Lúc đó, hơi thở sẽ thông suốt không bị chướng ngại và nó sẽ hiện tướng khi dài khi ngắn. Không còn bám chỗ tụ điểm nhân trung nữa, chỉ quan sát hơi thở thôi. Theo dõi độ dài hay độ ngắn của hơi thở trong khi hít thở chầm chậm và hãy nhớ cứ mỗi 5 hơi thở tác ý một lần.

Đề mục số 2 Định Niệm Hơi Thở hít thở dài, hay số 3 hít thở ngắn là để giữ hơi thở ổn định, không được dài quá, ngắn quá mà phải theo đặc tướng. Hai đề mục này để giữ hơi thở ổn định. Khi biết được hơi thở đặc tướng, nghĩa là khi con thấy hơi thở đó là an ổn, không có gì chướng ngại cho thân thì lấy hơi thở đó làm chuẩn. Từ đây giữ hơi thở duy nhất này mà tập luyện.

Đề mục số 4: Cảm Giác Toàn Thân hay Cảm Giác Thân Hành

Sau khi đã có hơi thở chuẩn, hơi thở bình thường của đề mục số 2 hay 3 rồi, đã chủ động được nó, quan sát được nó, không cho nó thay đổi nữa, lúc bấy giờ mới qua đề mục 4.

Trong đề mục này tụ điểm không còn trụ ở mũi nữa mà dời đi trùm khắp cơ thể. Tâm không bám vào đâu hết mà chỉ nương hơi thở vô ra và cảm nhận toàn thân.

Nín thở tác ý “Cảm giác toàn thân tôi biết tôi hít vô; cảm giác toàn thân tôi biết tôi thở ra”. Khi hít vô thì có độ rung động của thân theo hơi thở (dao động, máy động, phình xọp, nâng lên hạ xuống từng phần hay cả người,...), quan sát, hay cảm nhận, hay lắng nghe độ rung động hay cảm giác đó. Nương vào sự rung động của thân. Lúc hít vô cảm giác rung động từ trên đầu tới chân và lúc thở ra cảm giác rung động từ chân lên đầu.

Dường như khi tập như vậy thấy tâm theo hơi thở quét từ trên xuống dưới, rồi từ dưới lên trên. Tương tự như lấy mắt nhìn từ trên xuống dưới theo hơi thở vào, rồi ngó từ dưới lên trên theo hơi thở ra.

Dùng tâm quét suốt từ trên đầu xuống tới chân, rồi ngược lại từ chân lên đầu, xem có cảm thọ gì. Nếu không có cảm thọ gì thì đó là cảm thọ bất lạc bất khổ, còn nếu có cảm giác mát, lạnh, nóng hay đau nhức chỗ nào thì đó là cảm thọ khổ. Chỉ ghi nhận thôi, tức là biết thôi, không làm gì hết, có thế nào ghi nhận như vậy.

Tập để biết được cách thức quan sát 4 chỗ thân, thọ, tâm, pháp trước khi thật sự tập luyện 4 Niệm Xứ sau này.

Đề Mục Thứ 5: An Tịnh Thân. Đẩy Lui Cảm Thọ

Tập cho tâm an trú ổn định bằng cách nương vào hơi thở và dùng câu tác ý ₡An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô; an tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra”. Vì tướng trạng an trú đã có sẳn lúc nhiếp phục tâm, nên khi tác ý an trú thì con dẫn đi và nó từ từ hiện ra.

Cứ cảm nhận sự an ổn của thân và sự yên tịnh (yên lặng) của tâm không có niệm. Hai cái, khi hít vô thì cảm thấy thân an, không bị động đậy, không bị rung động; khi thở ra thấy tâm không niệm, yên tịnh. Cứ hai cái đó mà cảm nhận thôi.

Sau này, khi thân có cảm thọ khổ gì, dù ở mức vi tế, thì dùng kết quả đề mục 5 này mà đẩy lui.

Đề Mục Số 6: Cảm Giác Tâm Hành

Nhờ có trạng thái an tịnh của thân nên mới nhận ra được tâm dễ dàng. Khi thân an tịnh sẽ phát sinh hai trạng thái: trạng thái an lạc và trạng thái hoan hỉ. Nhận ra tâm là nhận ra trạng thái hoan hỉ đó.

Cảm giác tâm hành” là xem tâm có hành động gì không. Thí dụ ngồi hít thở mà có niệm khởi thì đó là tâm động, hành động; còn khi hít thở hoàn toàn không niệm khởi là tâm tịnh, hành tịnh. Chỉ ghi nhận cảm giác hành tịnh hay hành động của tâm thôi, chỉ nhận rõ tâm đang tịnh hay đang động.

Tâm có hai hành là tịnh và động. Nó khởi ra niệm này niệm kia, nó ở trong cái động. Đó là hành động, là tâm động. Còn tâm không hành là không khởi niệm; không khởi niệm là tâm tịnh. (Thân cảm thấy đau nhức, nóng, lạnh,... là thân hành).

Đề Mục 7: An Tịnh Tâm Hành

Sau khi cảm giác tâm hành rõ ràng rồi nghĩa là đã có cảm giác niềm hoan hỉ rất rõ rồi thì tác ý đề mục 7 “An tịnh tâm hành tôi biết tôi hít vô; an tịnh tâm hành tôi biết tôi thở ra” để đưa tâm vào trạng thái an tịnh. Lúc đó tâm hoàn toàn tịnh. Ngồi yên lặng rồi quan sát tâm, con sẽ cảm thấy im phăng phắc, cảm thấy tâm ở trong một trạng thái vắng lặng tuyệt vời đặc biệt.

Cứ mỗi lần tác ý là con cảm nhận như tâm có sự an ổn trong im lặng và mỗi lần hơi thở ra vô là thân và tâm tràn ngập sự hoan hĩ an ổn. Chính trạng thái này là năng lực đẩy lui dễ dàng các cảm thọ về tâm.

Khi đạt được kết quả an tịnh tâm hành rồi thì sử dụng pháp 4 Niệm Xứ đẩy lui các chướng ngại pháp. Bốn Niệm Xứ tập luyện trong Định Niệm Hơi Thở sẽ đẩy lui hết các tham ưu chướng ngại. Lúc đó thì con chỉ còn luyện duy nhất pháp 4 Niệm Xứ thôi.

Các Đề Mục Thứ 8 Đến 17

Đây là những đề mục mà trong kinh nói là ₡đẩy lui các chướng ngại pháp?. Ta trở ve 4 Niem Xứ để tập luyện đẩy lui các chướng ngại pháp thì đúng phương pháp. Sau khi thân tâm đã an trú được ổn định rồi thì lúc đó mới đúng lúc có đầy đủ năng lực để quán 4 Niệm Xư

Đề Mục Thứ 18 :Phá Buồn Ngủ

Tác ý đề mục này khi buồn ngủ trong lúc tập luyện Định Niệm Hơi Thơ

CĂN BẢN TU TẬP ĐỊNH NIỆM HƠI THỞ

1.- Nhiếp Phục Và An Trú Tâm Vào hơi thở

Giai đoạn đầu, tập luyện Định Niệm Hơi Thở thời gian ít, chỉ 5, 10 phút thôi, đừng lâu, lâu hơn là ức chế. Trong khi 5, 10 phút đó phải tập thật kỹ, biết thật rõ ràng từng hơi thở để an trú cho được trong hơi thở, tức là nhiếp phục được tâm trong hơi thở. Bắt buộc chế ngự ₡trói? tam vao trong hơi thở vo, hơi thở ra

Nói chung tâm phải niệm vào trong hơi thở thì đạt được sự nhiếp tâm. Không phải tập luyện lấy có, mà phải tập luyện rất nhiệt tâm từng hơi thở. Từng hơi thở vận dụng sự tập trung chú ý rất nhiệt tâm thì sẽ đạt được kết quả nhiếp tâm.

Tâm nhẹ nhàng, thoải mái, dễ chịu, chỉ duy nhất biết hơi thở ra vô một cách tự nhiên liên tục không đứt đoạn trong suốt thời gian 5 hơi thở. Mục đích của đề mục 1 là nhiếp phục tâm (tức tâm bám thật kỹ từng hơi thở) và an trú được tâm trong hơi thở (tức không có một niệm nào xen vào trong khi biết rõ sát hơi thở).

Đích chánh của giai đoạn này là phải nhiếp phục và an trú được tâm trên thân hành, lúc đi cũng như lúc ngồi hít thở.

2.- Chọn Đề Mục Nhiếp Tâm

Đức Phật đưa ra đến những 4 đề mục Định Niệm Hơi Thở số 1, 2, 3 và 4 chỉ nhằm để nhiếp phục cho được tâm. Nếu đề mục thứ nhất chưa đạt được nhiếp phục thì tập đề mục thứ hai hay thứ 3; tập đề mục thứ hai hay thứ 3 chưa đạt thì tập đề mục thứ 4. Không phải bốn đề mục này là bốn giai đoạn tu tập, mà chỉ để xác định đặc tướng người tu tập thích hợp với đề mục nào trong việc nhiếp phục tâm thì họ lấy đề mục đó mà tập luyện nhiếp cho được.

3.- Khi Nhiếp Tâm Vào Trong Hơi Thở

Bây giờ luyện cho nhuần nhuyễn đề mục số 2 để hơi thở dài hay đề mục số 3 để hơi thở ngắn hiện ra ổn định rồi thì cảm giác toàn thân sẽ dễ nhận ra.

Nương vào hơi thở” là nhiếp tâm vào trong hơi thở, cho nên tâm không còn bám vào duy nhất một chỗ nào nữa vì bám ở đâu thì chỉ biết ở đó thôi.

Nếu nhiếp phục tâm được cả ở trong hơi thở và ở trên bước đi thì mới bảo chứng được rằng đã nhiếp phục được tâm, vì cả hai thân hành, thân hành nội và thân hành ngoại, đều nhiếp phục tâm được hết.

4.- Thực Hành An Trú Tâm vào Hơi Thở

Chỉ khi nhiếp phục được tâm thì mới đủ điều kiện để an trú tâm.

Từ trước tới nay cứ 5 hơi thở tác ý một lần, bây giờ, sau khi đã không còn bị thất niệm trong suốt 5 phút, thì tăng lên 10 hơi thở mới tác ý và giữ cho trong thời gian 10 hơi thở đó không có niệm nào xẹt vô. Rồi tăng dần lên cho tới 5 phút tác ý một lần, cũng giữ không cho bị thất niệm trong thời gian đó.

5.- Cách kiểm tra kết quả đề mục

Khi mới ngồi xuống vừa hít thở mà đã thấy tướng trạng của đề mục nào thì đó là đã viên mãn đề mục đó cùng với tất cả những đề mục khác trước đề mục đang luyện.

Kết quả của đề mục 1 và đề mục 2 hay đề mục 3 xong rồi thì đề mục 4 mới dễ luyện thành công; đề mục 4 kết quả xong mới tập luyện thành công đề mục 5... Khi luyện đề mục trước đạt kết quả xong thì tướng trạng đề mục kế đó hiện ra liền; nếu kết quả chưa xong thì nó không hiện ra đâu, không vượt qua để tập đề mục khác sau đó được.

Khó khăn là lúc khởi đầu. Đề mục 1 mà đạt được thì những đề mục kế đó dễ kết quả lắm. Cho nên thiện xảo ₡Hít vô tôi biết tôi hít vô; thở ra tôi biết tôi thở ra?– ₡Hít? – ₡Thở? – ₡Hít? - ₡Thở?. Đo la ₡Định Diệt Tầm Giữ Tứ?, la cach thức tap luyen nhiep tam có chất lượng

6.- Kéo Dài An Trú - Kết Quả An Trú

Đây là cách thức để kéo dài sự an trú: Pháp của Phật là pháp dẫn tâm nên phải nhớ câu tác ý nào đã dẫn tâm vào an trú thì lấy câu đó sử dụng lại mỗi khi muốn kéo dài sự an trú, không để nó giảm sụt.

Thí dụ lực an trú hiện ra đang tốt thế mà luyện một lúc thì nó bắt đầu lui ra, lúc đó phải nhớ pháp Như Lý Tác Ý nào đã sử dụng để được an trú thì khi ấy phải lấy pháp Như Lý Tác Ý đó tác ý lại.

7.- Tập Luyện Phải Đạt Kết Quả

Nói tóm là sung mãn đề mục trước thì nó tự chuyển qua đề mục kế.

Khi đã an trú được thân (đề mục 5), rồi an trú được tâm (đề mục 6) thì đã tới đề mục 7 của Định Niệm Hơi Thở. Ngang đây thì nên dừng lại. Từ đây trở đi là pháp môn li dục li ác pháp, không còn tập luyện trên Định Niệm Hơi Thở nữa mà trở về 4 Niệm Xư luyện để li dục li ác pháp cho hết. Ác pháp là những sự đau nhức... tác động trên thân, những niệm này niệm kia khởi ra trong tâm. Lúc đó con dùng 4 Niệm Xứ đẩy lui các ác pháp đó đi. Khi an trú được thì đẩy lui được. Cái gì cũng đẩy ra được hết. Đau bệnh trên thân cũng đẩy lui để thân an, tâm khởi niệm cũng đẩy lui để tâm an. Khi không an trú thì không làm sao đẩy lui các ác pháp đó, các cảm thọ đó được. Vì vậy nên đây gọi là khắc phục tham ưu mà trong kinh nói.

8.- Tránh Trở Thành Thói Quen

Nhưng coi chừng tập luyện mà trở thành thói quen thì cũng trật. Cứ thưa dần câu tác ý mà vẫn nhiếp phục được tâm trong khoảng thời gian đó thì mới đúng cách tập luyện. Đừng tập đứng một chỗ sẽ trở thành thói quen không tốt, không kết quả, mất thì giờ. Nhưng coi chừng tăng quá sức sẽ bị buồn ngủ. Phải giữ không cho tăng lên quá sức, chỉ tu tập ở mức độ vừa sức cho thành thục, cho sung mãn năng lượng để khỏi bị buồn ngủ, ngủ gật vì mất sức.

Các đề mục 1 cho đến 5 là phần an trú thân hành nội và thân hành ngoại. Sau khi phần này được thuần thục, có được nội lực, được sung mãn năng lượng thì phần tâm ở các đề mục 6 và 7 mới khởi sự.

Kế đó phải giữ gìn các giới hạnh cho thanh tịnh, cho nghiêm (tức giữ giới độc cư vắng vẻ trọn vẹn và giờ ăn uống, thức ngủ). Từ đó tâm tự đi vào an tịnh, chứ giữ giới không trọn thì tâm vẫn bị phóng dật, vẫn bị bất an.

9.- Vận Dụng Hơi Thở - Đường Dây Hơi Thở

Hơi thở tự nhiên mà nó không đều, khi dài khi ngắn, khi mạnh khi yếu, xẩy ra trong một hai thời tập thì phải vận dụng hơi thở.

Đề mục 1 thì để tự nhiên. Chừng qua đề mục 2 hay 3 thì phải thực hiện như người thợ quay tơ, như người thợ gốm.

Chỉ để ý chỗ gom tâm và hơi thở ra vô, không quan tâm tới những gì khác cho tới khi nào tâm độc trú được trong hơi thở thì chỉ thấy duy nhất hơi thở ra vô, hoàn toàn chỉ một hơi thở duy nhất, không phải hơi thở thay đổi khi vầy khi khác, cũng không xen bất kỳ tạp niệm nào.

Đề mục 1, 2 hay 3 là tập cho tâm nằm trên đường dây hơi thở; sau này nhờ an trú hơi thở trong đường dây này mà thực hiện các đề mục khác theo ý muốn. Người nào tu tập không thuần thục, chưa nắm vững ba đề mục này mà vội đi qua các đề mục 4, 5 là tập mất căn bản.

10.- Vọng Tưởng và Định Niệm Hơi Thở

Trong Định Niệm Hơi Thở,đề mục 1 “Hít vô tôi biết tôi hít vô; thở ra tôi biết tôi thở ra” không phải là đề mục để tập cho tâm hết vọng tưởngchỉ luyện để tĩnh giác trong 5 hơi thở tác ý một lần. Khi có tĩnh giác thì đếm không quên, đếm không lộn.

Cũng như đi 20 bước tác ý một lần và ý biết bước đi không gián đoạn trong khi bước đi thì đã tĩnh giác trên bước đi. Tập tĩnh giác thì cần nhớ 5 hơi thở tác ý một lần, 20 bước tác ý một lần và cái biết hơi thở hay bước đi không bị gián đoạn.

Có hay không có vọng tưởng là do chỗ li tham, sân, si chứ không phải do ức chế tâm. Lúc này là lúc luyện tĩnh giác, chứ không phải là luyện diệt vọng tưởng, làm cho hết vọng tưởng.

11.- Hơi Thở Bị Chướng Ngại

Hơi thở là thân hành nội nên đối với những người đã bị rối loạn hơi thở thì họ không nên tiếp tục tập hơi thở nữa, mà chỉ nên tập thân hành ngoại thôi. Trường hợp đó người này phải ngưng tập hơi thở, chỉ tập luyện thân hành ngoại, tức là kinh hành thôi. Biết bước đi mà tâm không tập trung, đi rất tự nhiên, hơi thở không còn bị rối loạn nữa lúc đó mới nên trở về tập hơi thở

12.- Định Niệm Hơi Thở Làm Sung Mãn 4 Niệm Xứ

Các đề mục 1 tới 7 của Định Niệm Hơi Thở chuẩn bị cho con đủ năng lực để đi vào 4 Niệm Xứ. Còn các đề mục 8 đến 19 của Định Niệm Hơi Thở không phải ngồi luyện Định Niệm Hơi Thở nữa mà phải trở về với 4 Niệm Xứ thì sẽ thấy cách tập luyện rõ ràng. Khi tâm khởi tham, sân, thì ở trên 4 Niệm Xứ mà quán, dùng kết quả của Định Niệm Hơi Thở tác ý đẩy lui. Phải có tâm an trú thì mới đẩy lui được. Tâm chưa an trú thì đẩy lui chưa được.

Khi tâm thanh thản an lạc vô sự kéo dài trong một thời gian cần thiết mà không còn bị chướng ngại pháp trên đó nữa, thì đó là thành tựu sung mãn 4 Niệm Xứ. Sung mãn 4 Niệm Xứ thì có đủ năng lực 7 Giác Chi. Nếu lúc đó chưa có năng lực 7 Giác Chi thì con sử dụng pháp Thân Hành Niệm kiên cố như cỗ xe, luôn luôn tác ý để làm cho Trạch Pháp Giác Chi xuất hiện.

Chánh Niệm của đạo Phật là 4 Niệm Xứ, mà sung mãn 4 Niệm Xứ tức là Chánh Niệm đã luyện xong, đã sung mãn rồi. Lúc đó qua Chánh Định để nhập từ Sơ Thiền cho đến Tứ Thiền. Chờ cho đến lúc 4 Niệm Xứ sung mãn mới tác ý “Tâm phải li dục li ác pháp nhập Sơ Thiền đi!”.

13.- Cần Phối Hợp Các Kết Quả

Định Niệm Hơi Thở chính là pháp Đức Phật trang bị cho ta để đẩy lui các chướng ngại pháp. “An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô; an tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra” là pháp đẩy lui chướng ngại của thân. “An tịnh tâm hành tôi biết tôi hít vô; an tịnh tâm hành tôi biết tôi thở ra” là pháp đẩy lui chướng ngại của tâm. Còn “Với tâm định tỉnh tôi biết tôi hít vô; với tâm định tỉnh tôi biết tôi thở ra” là pháp đẩy lui si, đẩy lui sự buồn ngủ, ngủ gật.

Muốn li gì thì phải tập luyện đúng pháp mới có thể li được. Nếu muốn li tâm sân mà chưa dẹp tâm si thì li tâm sân không được, cũng không li tâm tham được. Phật dạy mới vô đầu phải tu tập tĩnh giác, rồi tập làm sao cho tâm được an lạc, chừng đó mới li tham, li sân, li si. Tâm chưa an lạc tức còn chướng ngại thì không li cái gì được.

14.- Bài Kinh Xuất Tức Nhập Tức

15.- Lưu Ý Về Định Niệm Hơi Thở

Phật có nói chúng ta nương vào đường dây hơi thở để thực hiện các pháp khác, bởi vì Định Niệm Hơi Thở chia ra nhiều đề mục, mỗi đề mục nhắm vào việc đẩy lui các chướng ngại pháp, các ác pháp. Cho nên nếu không thuần thục ổn định các kết quả của các đề mục thì trên 4 Niệm Xứ không tập luyện được, không khắc phục được tham ưu trên đó đâu.

Vậy người mới tập, nếu ngồi được 5 phút, 10 phút mà cơ thể yên thì ngồi; nếu sau đó cơ thể không yên, sanh tê mỏi hay có cảm giác khó chịu thì xả ra, đứng dậy, và tập đề mục 1, 2, 3 Định Niệm Hơi Thở trong khi đứng, khi đi chứ đâu cần ngồi. Nhưng khi đã nắm được hơi thở rồi, tức an trú tâm trong hơi thở được rồi, thì nhất định không đầu hàng cảm thọ, không đầu hàng cảm giác, để luyện cho thành kết quả. Luyện 30 phút là quyết ngồi đủ 30 phút.

16.- Định Niệm Hơi Thở giúp Bốn Niệm Xứ

Bốn Niệm Xứ là pháp tập luyện ngồi rất tự nhiên, coi như mình là người không tập luyện pháp gì hết; chứ nếu còn ôm pháp thì đó chưa phải là luyện 4 Niệm Xứ.

Bốn Niệm Xứ chỉ có đẩy lui chướng ngại pháp trên 4 chỗ thân, thọ, tâm, pháp thôi. Nghĩa là có chướng ngại thì dùng năng lực kết quả của Định Niệm Hơi Thở để khắc phục, tức đẩy cho lui ra khỏi 4 chỗ đó, không có thì ngồi chơi. Tối ngày ngồi chơi. Giữ tâm thanh thản an lạc vô sự. Không cần phải tác ý thân tâm thanh thản an lạc vô sự, không cần phải tác ý tâm li dục li ác pháp, tâm như cục đất nữa, không còn ngồi quán bất tịnh nữa. Những cái này tập luyện trong giai đoạn Định Niệm Hơi Thở, bây giờ chỉ ngồi chơi thôi.

Đó chính là lúc cần phải sống ĐỘC CƯ TRỌN VẸN của giai đoạn 3 Độc Cư, để đẩy lui hết chướng ngại pháp trên bốn chỗ thân thọ tâm pháp.

B.- KINH HÀNH TĨNH GIÁC

1.- Những Cách Thức Đi Kinh Hành

Trước khi đi, phải đứng yên lặng vài phút để cảm nhận cái yên tịnh, đừng vội đi sẽ không hay. Ở giai đoạn khởi đầu này, trong khi đi, đừng cúi xuống nhìn chân mà phải nhìn xuống tới trước vài mét. Có 4 cách đi kinh hành.

Cách thứ nhất: Đi 20 bước, 1 lần tác ý

Nhớ chỉ cần đếm đủ 20 bước, không thiếu, không dư, đứng lại, nín thở, tác ý, đi tiếp. Có hay không có vọng niệm không quan trọng.

Khi lắng nghe bước đi là cảm giác bước đi. Kinh bảo lắng nghe là lắng nghe bước đi, tức là phòng hộ tai không nghe ra bên ngoài. Đi đúng là đi mà ngó thẳng ra đằng trước, tâm thì chú ý vào bước đi, luôn luôn cảm nhận bước đi. Nhìn ra đằng trước và cảm nhận bước đi một cách tự nhiên.

Cách thứ hai: Đi 10 bước kết hợp với đứng hít thở 5 hơi.

Cách thứ ba: Đi 10 bước kết hợp ngồi hít thở 5 hơi.

Cách thứ tư: Thân Hành Niệm

2.- Kinh Hành Chất Lượng

Khi đi Kinh Hành Tỉnh Giác, hãy đi rất tự nhiên, biết bước chân đi một cách tổng quát. Chỉ biết từng bước chứ không biết vào chi tiết. Đây là tĩnh giác trên hành động đi

3.- Đi Nhanh Để Phá Buồn Ngủ

4.- Phá Buồn Ngủ Bằng Kinh Hành Và Tác Ý

5.- Khi Mới Tập Luyện Phải Kinh Hành Nhiều

6.- Tâm Phóng Dật Phóng Niệm

Khi đang đi mà vọng tưởng tới dồn dập thì nên đứng lại, giữ yên lặng một lúc cho thân tâm ổn định rồi tập trung tâm ý tập luyện lại.

7.- Cách Kinh Hành Nhiếp Tâm – An Trú Tâm

Nên nhớ ý lắng nghe bước đi còn mắt thì hãy nhìn ra xa để thư giãn bớt sự tập trung. Nếu ở giai đoạn mới bắt đầu này mà gom mắt, tai, thân, ý vào bước đi thì ức chế quá.

Sau thời gian luyện độ nửa tháng hay một tháng, lúc đó mới bắt đầu gom mắt vào bước chân, mắt nhìn thấy chân bước. Con sẽ thấy vọng tưởng giảm rất nhiều và cảm thấy dễ chịu trong suốt 30 phút. Lúc đó là con đạt được sự an trú. An trú ở mức độ ngang với sự bớt vọng niệm.

Nửa tháng hay một tháng sau lại gom thêm tai vào. Đi mà mắt nhìn bước chân, tai lắng nghe bước đi, tập trung luôn cả mấy căn vào bước đi. Giai đoạn này là giai đoạn đi 30 phút không một niệm khởi mà không bị căng mặt, nặng đầu.

8.- Luyện Nhiếp Tâm, An Trú Tâm Khi Đi

1.- Giai đoạn 1 nhiếp phục tâm trên bước đi:

2.- Giai đoạn 2 nhiếp phục tâm trong sự an tịnh của bước đi:

Qua giai đoạn 2 này là nhiếp tâm trong sự an tịnh của thân đang bước đi chứ không còn nhiếp tâm trên bước đi nữa.

3- Giai đoạn 3 an trú tâm trên bước đi:

Trong khi nương vào bước đi mà lắng nghe thân an tâm tịnh. Luyện như vậy thì không bị thất niệm. Tức là lúc này tâm luôn luôn ở trên toàn thân.

4.- Giai đoạn 4 ₡an trú” tâm trong cái an tịnh:

Tiếp tục luyện trên phương pháp thực hành biết toàn thân tâm, cùng lúc biết cả toàn thân và tâm, chứ không phải đi biết đi không thôi đâu!

Như vậy là tu 4 Niệm Xứ trong khi thân di động.

9.- An Trú Tâm Vào Bước Đi

Tác ý “An tịnh thân hành tôi biết tôi đang đi”.

10.- Tác Ý An Trú Thì Tâm Phải Như Thế Nào?

Chỉ khi nhiếp phục được tâm, rồi an trú được tâm thì đó mới là giai đoạn tĩnh giác, sau đó mới tiến tới giai đoạn tỉnh thức, định tỉnh.

11.- Đếm Số Khi Nào Trong Lúc Bước

Đếm số rơi vào trước lúc bàn chân bước tới có kết quả tĩnh giác tốt hơn.

12.- Li, Đoạn, Diệt Ngũ Triền Cái Khi Đi

Khi đạt được sự an trú tâm trên bước đi rồi; thuần thục ổn định như vậy được rồi thì chuyển qua giai đoạn của cũng hành động đi như vậy nhưng thay bằng tác ý ₡Li?, ₡Tham?... ở moi bước đi. ₡Li?, ₡Sân?... roi ke đen la ₡Li?, ₡Si?... ₡Li?, ₡Man?... ₡Li?, ₡Nghi?.

13.- Sự Chú Tâm Khi Đi

Khi tập luyện Kinh Hành Tỉnh Giác, mắt có thể có hai điều kiện thấy bước chân đi:

- Khi nhìn xuống thì thấy gần hết các động tác chuyển động của chân.

- Khi nhìn tới trước, không nhìn xuống thì chỉ biết chuyển động của chân qua cảm nhận và hình dung nó ra.

14.- Khuyên Dạy Thêm

Về sự ôm pháp tập luyện, càng ngày đi kinh hành càng chậm lại là đúng. Thất niệm là mất Chánh Niệm Tĩnh Giác. Có niệm mà không mất chánh niệm là đúng.

C.- THÂN HÀNH NIỆM

1.- Lời Dạy Đầu

Đây là pháp tập luyện sau khi 4 Niệm Xứ đã sung mãn, nghĩa là ngồi chơi mà tâm thanh thản an lạc vô sự 12 tiếng đồng hồ, vẫn thản nhiên không khởi một niệm nào. Người đã chứng giới luật nghiêm chỉnh, đã li dục li ác pháp.

2.- Cần Thiện Xảo Chọn Tốc Độ

Đi Thân Hành Niệm chậm nhưng không nên chậm quá. Nếu thân hành vừa đúng với đặc tướng và nhân tướng của, không nhanh cũng không chậm quá thì sẽ không bao giờ có niệm khác xen vào.

3.- Phối Hợp Thân Hành

Tất cả làm sao cho nhịp nhàng, đều đặn, ăn khớp. Có vậy mới thành cỗ xe. Khi đó sẽ có một niệm gọi là Thân Hành Niệm, là niệm của thân.

4.- Thực Hành Tập Luyện

5.- Chọn Đúng Tốc Độ

6.- Tập Kỹ Lưỡng

Tập thật kỹ lưỡng Thân Hành Niệm thì 7 Giác Chi sẽ xuất hiện, khi đó cảm giác như có một lực điều khiển thân mình hoạt động, không làm theo không được.

Lúc chưa tập luyện thì nghiệp dẫn thân hành. Làm rồi mới biết hành động đó, tức nghiệp chủ động. Bây giờ cái ý chủ động thân nghiệp. Tác ý rồi mới hành động. Cứ tập luyện chuyên cần lâu ngày con sẽ làm chủ cái nghiệp. Làm chủ được nghiệp thì cũng làm chủ được nhân quả.

7.- Chú Tâm Trong Thân Hành Niệm

Lúc đầu phải nhìn rất kỹ, tác ý rất kỹ. Sau khi lực đẩy xuất hiện, có lực đẩy rồi thì không nhìn kỹ nữa. Do tập kỹ lưỡng như vậy được một thời gian thì lực đẩy xuất hiện, lúc đó không chú ý nhìn hành động thân kỹ như thế nữa, cũng không tác ý ra lệnh nhắc từng chi tiết nhỏ mà chỉ tác ý ra lệnh tổng quát, thí dụ ra lệnh: ₡Chân mặt bước!? thì chan tự động dở gót lên, dở chân lên, đưa chân tới, hạ chân xuống, hạ gót xuống.

Muốn đạt được như thế thì Định Niệm Hơi Thở không thể nào không đi đầu, tức cần phải an trú tâm vào trong hơi thở cho được. Khi an trú vào hơi thở xong thì đứng dậy bắt đầu ra lệnh ₡Chân trái bước!? Mot khi tam đa an tru và vừa khởi động luyện Thân Hành Niệm thì sẽ có một lực hiện ra tức khắc.

Đến khi tập luyện thuần thục rồi thì lệnh vi tế không còn mà chỉ còn cái ý bám chặt vào thân hành, chừng đó ý tới đâu thân hành động tới đó, thân không rời khỏi ý mà ý cũng không rời khỏi thân. Lúc đó gọi là “tâm định trên thân” của Niệm Giác Chi. Tình trạng rất vắng lặng, ý bám rất chặt vào thân hành.

Thân Hành Niệm là NHẤT DẠ HIỀN đó.

8.- Cần Tập Luyện Dưới Sự Chỉ Dạy Của Vị Thầy

9.- Thân Hành Niệm Sanh Bảy Giác Chi

Nếu luyện 4 Niệm Xứ chưa sung mãn, Dùng pháp Thân Hành Niệm để cho 7 Giác Chi xuất hiện đầy đủ năng lực.

Niệm Giác Chi bắt đầu có. Thân trở thành niệm của tâm, hay trong kinh nói ₡Tâm định trên thân? va bat đau co Định Giác Chi, tâm không còn phóng dật ra nữa.

Phải tập luyện 7 đề mục căn bản đầu của Định Niệm Hơi Thở cho đạt được kết quả, chừng đó chuyển qua luyện 7 Giác Chi sẽ được dễ dàng.

10.- Tứ Niệm Xứ – Thân Hành Niệm

Khi tập pháp Thân Hành Niệm này họ có được sự nhiếp tâm trên bước đi. Để khi tập luyện pháp môn Kinh Hành Tĩnh Giác hay Định Niệm Hơi Thở thì dễ nhiếp tâm vào bước đi hay hơi thở hơn.

Chỉ khi nào luyện tất cả các đề mục của Định Niệm Hơi Thở, nhiếp tâm và an trú tâm được có kết quả chắc chắn, ổn định thì mới bắt đầu luyện 4 Niệm Xư, lúc đó chỉ ngồi thư thả bình thường để đẩy lui chướng ngại pháp. Sau khi đẩy lui hết tất cả chướng ngại thì lúc đó mới thực sự luyện Thân Hành Niệm để có 10 thần lực xuất hiện ra.

11.- Thân Hành Niệm: Thần Thông

D.- ĐỊNH THƯ GIÃN (XẢ TÂM)

Giới Thiệu

Mục đích của đạo Phật là tâm hoàn toàn xả. Xả tâm là phải tùy thuận với hết mọi hoàn cảnh, mọi sự việc dù trái ý nghịch lòng.

Điểm quan trọng nhất của người tập luyện tâm bất động của Định Bất Động Tâm là pháp xả tâm trong giờ nghỉ giữa hai pháp tu.

Cái tâm suy nghĩ, sai sử chính là chướng ngại pháp. Mình cứ đẩy lui những cái này đi, nó làm cho mình không vô sự.

Thật sự không cần phải tập luyện pháp gì khác mà tối ngày giữ mình là người vô sự, không làm gì hết, cứ ngồi mà xả tâm thôi. Niệm gì khởi lên cũng xả hết, riết rồi mình có cái lực khiến cho đủ cả 7 Giác Chi xuất hiện. Thầy gọi là xả tâm, còn đức Phật nói là “Đẩy lui chướng ngại pháp”.

Cách giữ tâm vô sự

Khi niệm nào sai bảo làm gì thì nhất định không làm. Không làm theo niệm khiến làm tức là li dục. Trong giờ thư giãn, không có niệm gì hết là tốt.

Tập luyện Định Thư Giãn thì phải khéo léo để thân tâm trả về trạng thái bình thường của nó là đúng, đừng để bị lôi vào trong các pháp khác.

Cách Thực Hành Tu Tập

Tác ý khi đi kinh hành cũng như trong lúc ngồi: "Tâm phải sáng suốt như ban ngày, tâm phải thanh thản, vô sư". “Đầu óc phải thư giãn, không được tập trung chỗ nào hết, phải tự nhiên, hồn nhiên với vạn pháp”.

Thư Giãn thì phải làm như mình không biết tập luyện là gì hết, phải xả ra. Thư giãn là nghỉ ngơi, phải để thân và tâm hoàn toàn nghỉ ngơi.

Định Thư Giãn Là Tiền Thân 4 Niệm Xứ

Xả Tâm Trong 4 Niệm Xứ