BẬC BA MINH DẠY TU CHÁNH NIỆM TỈNH GIÁC (Giai đoạn tiếp Tứ Chánh Cần)
BÀI THỨ NHẤT : DẠY TU SINH NAM NỮ CHUNG
BÀI THỨ HAI : DẠY BỐN TU SINH NAM
Hướng dẫn căn bản NGỒI QUÁN THÂN TRÊN THÂN THEO TỨ NIỆM XƯ
Muốn ngồi tu Tứ Niệm Xứ, trong Định Niệm Hơi Thở: “Cảm giác toàn thân tôi biết tôi hít vô, cảm giác toàn thân
tôi biết tôi thở ra”, nghĩa là hít vô thở ra nhưng cảm nhận cảm giác toàn thân. Đó là giai đoạn đầu, còn
bây giờ đã rành rồi thì tác ý như thế này “Tâm quay vô nhìn thân, quan sát thân của mình”, rồi bắt
đầu lắng, yên lặng thì thấy nó quay vô, tức là nó quay vô. Khi no quay vô thì nó tỉnh thức
trên thân liền.
Thấy được thân từ đầu cổ xuống hai vai và lưng, ngực,
bụng, hai vế, cẳng chân, bàn chân đang kiết già; nghĩa là cảm nhận
và thấy toàn bộ thân. Bây giờ
làm sao giữ cho hình ảnh thân
qua cảm nhận và thấy đó được cụ thể rõ ràng trong tâm đúng với
thực tế, đó là thấy thân như thật. Toàn thân từ mông lên ngực
bụng đầu đều có rung động đẩy
lên nở ra khi hít vào và khi thở ra thì thu trở về, xẹp xuống lại.
Các chuyển động rung động đó lan truyền nhè nhẹ xuống hai chân kiết
già. Nói chung toàn bộ thân đều
có rung động theo hơi thơ. Cảm nhận thấy thân, cảm nhận thấy
sự rung động của thân. Tất cả đều rõ ràng, cụ thể. Đó là đã “Quán
thân trên thân”, nương vào hơi thở để thấy sự rung động của
thân trên thân.
Bây giờ tu quán thân trên
thân theo Tứ Niệm Xứ, lấy tâm
để quan sát thân trong tác động của hơi thở; tâm có niệm hay không có niệm không quan trọng; đừng quên cảm nhận toàn thân của
mình. Nếu quên thì nhắc lại câu pháp hướng lần nữa. (“Tâm quay vô nhìn bốn chỗ thân, thọ,
tâm, pháp”). Đây là lúc tập
quán thân trên thân, chứ chưa diệt niệm khắc phục tham ưu. Tập
quán trước đã.
Đây là tập tỉnh thức trên cái quán. Tu Tứ Niệm Xứ là tập quán thân, thọ, tâm, pháp. Quán là
ngầm tỉnh thức trên đó. Sau đó dùng pháp
tác ý cho tâm quay vô, vừa quay vô là nó quán liền để tỉnh thức trên đề mục quán thân.
Rồi mới tới giai đoạn xả, tức
là giai đoạn nhiếp phục tham ưu.
“Trên thân quán thân để
nhiếp phục tham ưu”. Nghe dường như làm một lượt vừa quán vừa
nhiếp phục, nhưng mình phải ngắt
làm hai bước, tu tập từng bước cho nó dễ. Bước đầu mình phải tập quán sát trên pháp tỉnh thức;
sau khi thấy tỉnh được rồi thì tới bước thứ hai mới bắt đầu nhiếp phục tham ưu, tức là giai
đoạn tỉnh thức được rồi thì mới tới giai đoạn nhiếp. Phải tu từng
giai đoạn.
Cảm nhận tức là cái tâm của mình gom lại, quay vô quan
sát từ trên xuống dưới, từ dưới lên trên. Nó không đứng ở chỗ nào
cả.
Tập sao để khi vừa thấy có niệm thì tâm quay lại cảm nhận
thân để tỉnh thức trên thân.
Mà khi quay lại quan sát thân kĩ lưỡng, niệm không có, chỉ nương theo
biết hơi thở, nhờ sự động dụng của hơi thở vô ra đó mà nó thấy từ
trên đầu xuống tới dưới chân hay từ dưới chân lên đầu, nghĩa là cảm nhận toàn thân cùng lúc, toàn
bộ từ trên xuống từ dưới lên.
Bây giờ chỉ tập ngồi quan sát thân, thọ, tâm của
mình theo hơi thở. Khi đã thành thục thì mới đổi oai nghi như đi
quan sát thân, thọ, tâm của mình; đứng
quan sát thân, thọ, tâm của mình; nằm
quan sát thân, thọ, tâm của mình. Tập từng oai nghi để rồi ráp lại, chứ không thể nào giõi mà tập cùng lúc
tất cả 4 oai nghi được. Tập từng hành động cho đến khi quen. Tập tỉnh thức trong mỗi hành động
đó cho được, rồi mới bắt đầu mở cuộc chiến đấu để dẹp giặc sanh
tử của mình.
Tứ Niệm Xứ, tức là làm sao để biết toàn thân hành trong suốt thời gian 1 hay 2 giờ.
Quan sát tức quán trong khi rất tỉnh, rồi sau đó mới tới diệt tham ưu,
tức là làm cho ưu phiền hết. Không ưu phiền thì nhiếp thân vô trong
hơi thở. Nhiếp vào toàn thân là
đúng, quay về toàn thân là đúng, đó chính la quán thân.
Phải mở mắt mà tập quán, đừng nhắm mắt. Quán thân là
tập tỉnh thức trên thân, sau này kéo
dài cái biết thân để được định tỉnh trên thân. Nghĩa là từ quán
thân đi đến tỉnh thức; từ tỉnh thức mới đi đến định tỉnh. Phải đi mấy giai đoạn mới định tỉnh. Định tỉnh
thì tâm nhu nhuyến dễ xữ dụng.
Cảm giác thân hành toàn thân. Khi mình hít vô hay thở ra
cảm thấy có sự rung động là cảm nhận trên hành động của toàn thân
chứ không phải là cảm nhận
một khối toàn thân.
Pháp Tứ Niệm Xứ lúc đầu còn tác ý cảm giác toàn thân,
nhưng sau thì không dùng pháp tác ý nữa mà dùng pháp hướng tâm ra lệnh: “Tâm
không phóng dật, quay vô nhìn thân! Quan sát thân!”. Ra lệnh xong
rồi tác ý “Tâm thanh thản, an lạc,
vô sư”. Lắng nghe thì thấy tâm thanh thản an lạc vô sự. Lắng là
mình thấy nó quan sát. Hướng tâm thì nhanh lắm, không cần xữ dụng
tác ý.
Vừa mới ngồi xong là bảo
tâm quay vô: “Tâm thanh thản an lạc vô sự, quan sát trên thân, thọ, tâm,
pháp.” Ra lệnh như vậy, rồi ngồi lặng yên thì thấy tâm quay
vô. Bảo nó quay vô thì thấy tâm quay vô nhìn thân; rồi bắt đầu thấy
toàn thân rung động ăn nhịp với
hơi thở vô ra, vô ra.
Sau đó không cần hơi thở nữa, mà nó vẫn tỉnh thức quan
sát trên toàn thân của nó; không có gì làm mất sự quan sát đó
được. Mà nó quan sa t nhẹ nhàng lắm. Có hai phần thật sự: thân đang ngồi và tâm đứng ở ngoài nhìn
thân. Luôn luôn nhìn thân chứ nó không nhìn chỗ khác. Nó chú ý nhìn
cái thân đang ở đó. Nó yên lặng. Đó là cách thức quan sát Tứ Niệm
Xứ đã được định tỉnh. Tâm đã
định trên thân mà quan sát cái thân. Tâm định tỉnh.
Bây giờ tập để định trên thân hành, để tỉnh thức
trên thân hành, sau đó mới tới giai đoạn định tỉnh. Lúc đầu tập cảm
nhận thân của mình rồi sau đó mới tỉnh thức; tỉnh thức rồi mới tới định tỉnh.
Chỗ quan trọng của Tứ niệm
Xứ là tập cho tâm không phóng dật
thì tâm ở đâu? Thì nó phải ở trên tứ niệm xứ của nó chứ ở
đâu! Giờ mình xữ dụng pháp Tứ Niệm Xứ cho nó không phóng dật thì
nó phải “phóng” trên tứ niệm xứ chứ đâu; nó phải tỉnh thức trên tứ niệm xứ mới thành tựu. “Tâm
định trên thân”
Khi ngồi trong một tư thế nào lâu mà bị chướng ngại đau nhức gì thì có thể thay đổi thế ngồi nhưng trong lúc đó không rời, không ngắt
đoạn, không gián đoạn sự quan sát thân. Trong khi thay đổi 4 oai nghi
vẫn quan sát thân, tức là không phóng dật đó.
Khởi tập trong thế ngồi cho đến khi thuần thục rồi mới qua tập
trong thế đi. Trong khi ngồi, nếu có bị các chướng ngại như bị hôn trầm thì dùng pháp đi kinh
hành mà phá.
Khi tập tỉnh thức ở thế ngồi
rồi thì sẽ tập tỉnh thức trong thế đi;
tỉnh thức trong thế đi rồi thì tập tỉnh thức trong thế nằm; còn thế đứng thì cũng giống như thế ngồi thôi. Rồi khi đã tỉnh
thức trong cả 4 oai nghi xong thì sẽ kết hợp tất cả bốn oai nghi lại.
Mỗi khi tâm phóng khởi niệm
hay bị phóng dật thì tác ý “Tâm
thanh thản an lạc vô sự, không phóng dật, hãy quay vô nhìn thân!”;
hoặc “Tâm không phóng dật, nhìn thân! Tâm thanh thản, an lạc, vô sư”
Tỉnh Thức tức là quan sát, tỉnh thức trên thân. Nói Quán
thân trên thân khắc phục tham ưu chứ thật ra khi định tỉnh được thì nó tự khắc phục
tham ưu trong pháp định tỉnh đó.
Sau khi thấy sự định tỉnh của mình trên thân, thọ, tâm,
pháp, cụ thể rồi thì tất cả những pháp đã tu tập mấy lâu nay đều
dẹp hết, không còn trở lui tu chúng nữa, mà chỉ còn ôm Tứ Niệm Xứ thôi. Hiện giờ nếu chưa có sức
định tỉnh đó thì có thể trở lui tu tập các pháp đó cho thêm sung mãn.
Nhưng khi đã vô chính pháp Tứ Niệm Xứ tu tập rồi thì phải ôm phao Tứ
Niệm Xứ mà tu tập cho định tỉnh, đạt cho được định tỉnh, phải dùng Tứ
Niệm Xứ để chiến đấu, chiến thắng giặc hôn trầm thùy miên.
BÀI THỨ BA: DẠY MỘT TU SINH NAM
Khi ngồi lâu sinh những cảm
thọ này kia thì hãy xả ra, đứng dậy đi, đừng ngồi nữa. Mình đang
tập quán thân thì đi mà vẫn quan sát thân. Khi mới ngồi tu Tứ Niệm
Xứ thì đừng để thọ niệm xứ cũng
như tâm niệm xứ xen vào lúc đang quan sát thân niệm xứ.
Khi đi vẫn quán thân, nhưng
khác với lúc ngồi; lúc ngồi thì quán thân nương vào hơi thở, bây giờ đi thì quán thân nương vào bước đi,
chứ không nương vào hơi thở. Cũng cảm biết toàn bộ thân từ trên đầu xuống tới chân, từ chân lên
tới trên đầu trong lúc chân bước đi, không lưu tâm tới bước đi, tập
trung tâm vào trên toàn thân.
Quán thân đến khi không có những cái tham ưu gì khác
thì chỉ còn quán thân thôi. Như vậy mới đi đến định tỉnh, tâm định
trên thân.
BÀI THỨ TƯ: DẠY MỘT TU SINH NAM
QUÁN THÂN TRÊN THÂN THEO OAI NGHI ĐI, ĐỨNG, NẰM.
Ở đây mình mới tập quán thân, coi quán được hay
không. Nó quan trọng là ở chỗ QUÁN
THÂN. Quán thân là cảm giác
toàn thân chứ không phải là đứng ở một điểm nào trên thân, mà
phải ở toàn thân. Đó là điều quan trọng của sự tu tập Tứ Niệm Xứ,
“Quán thân trên thân để khắc phục
tham ưu”. Khi quán được thì nó
nhiếp phục được niệm, không còn một niệm gì hết, bởi vì pháp
Tứ Niệm Xứ đặc biệt vô cùng.
Tâm quay vô quan sát trên thân không ngưng nghỉ suốt trong
thời gian tu thì nó nhiếp phục được tham ưu. Cho nên tâm không phóng dật là tâm đã nhiếp phục được tham ưu.
Tu tâm xả thì ngồi chơi mà có niệm gì, có chướng ngại gì
thì đuổi như là tu Tứ Niệm Xứ trên 4 Chánh Cần cho chắc ăn. Nhưng khi
tâm yên lặng thì nó quay vô
quan sát thân nó. Đầu tiên khi mình ngồi thì nó thấy hơi thở, nhưng
đừng có bám vào hơi thở, thấy hơi thở thì mặc nó, chỉ quan sát trên thân
mà thôi. Thế thì cũng giống như Tứ
Niệm Xứ.
Nó quan sát thân y như một ngọn đèn từ xa rọi chiếu vào
thân, thấy rõ ràng toàn thân mà khi định tỉnh càng cao thì nó
thấy thân nó càng rõ ràng hơn. Đó là định tỉnh.
Quán thân trong oai nghi ngồi không gián đoạn
không niệm khởi trong thời gian 30 phút được rồi, thì bắt đầu tập
quán thân trong oai nghi đi; rồi
trong oai nghi đứng; trong oai nghi
nằm, oai nghi nào cũng quán
được 30 phút hết. Sau đó tu thay
đổi từ oai nghi này sang oai nghi khác. Cứ ngồi 5 phút thì đứng
dậy đi 5 phút; đứng lại 5 phút; nằm xuống 5 phút. Lúc nào cũng giữ
tâm trên thân được như vậy và cứ giữ
tiếp tục để cho nó quán thân trên thân liên tục không gián đoạn
mỗi khi thay đổi oai nghi, không nhất thiết theo một thứ tự nào. Nằm,
ngồi, đi, đứng, oai nghi nào cũng đều quán thân trên thân được không
thay đổi, không mất niệm thân.
Khi đi muốn cho tâm chỉ biết
thân rung động thôi thì để 2 tay sau
lưng hoặc khoanh tay trước bụng rồi đi sẽ thấy sự rung động của
nó cụ thể.
Trước khi đi nên đứng yên
lặng một lúc để cảm nhận toàn
thân từ trên đầu xuống chân và từ chân lên đầu. Thấy toàn bộ
thân đang đứng. Thấy thân rung động theo hơi thở vô ra, cũng tương tự
như khi ngồi tu 4 Niệm Xứ. Giữ cảm nhận đó rõ ràng không thay đổi
trong tâm. Thấy biết thân con như
thật, đúng y như nó đang đứng đó, không có gì tưởng tượng.
Sau khi thấy biết thân trong
khi đứng rõ ràng cụ thể như thế rồi con mới bắt đầu đi để quán thân trong oai nghi đi. Phải đi
chậm, khá chậm thì mới quán thân kĩ lưỡng, không bỏ sót. Thấy sự chuyển động của thân liên
tục không gián đoạn khi chân trái bước rồi chân phải bước. Toàn thân di chuyển tới liên tục
với dạng chuyển động khi xàng qua phải (chân trái bước), khi xàng qua
trái (chân phải bước) nhịp nhàng, nhịp nhàng trong khi đi.
Nếu kinh hành tỉnh giác thì chỉ chú ý vào sự chuyển động của
hai chân, nhưng ở đây quán thân trong khi đi vậy thì phải thấy toàn bộ thân trong suốt tiến trình bước tới của
mỗi chân, của hai chân. Phải thấy biết thân từ đầu xuống chân trong
bất kỳ giây phút nào của bước đi, chân này rồi chân kia liên tục
chuyển động bước tới.
Nằm tu Tứ Niệm Xứ thì phải nằm kiết tường nghĩa là nằm nghiêng trên hông bên phải,
bàn tay phải lót đầu, tay trái xuôi theo thân, hai chân thẳng chồng
lên nhau. Trong khi nằm thì quán
thân nương vào hơi thở. Hơi thở làm thân rung động máy động để
nhận thấy biết toàn thân theo sự rung động này. Giữ hình ảnh toàn
thân trong tâm mà không mất niệm hơi thở, không bị hôn trầm thuỳ miên,
không phóng niệm. Ở trong một trạng thái bất động yên lặng mà cảm
nhận rõ ràng cụ thể sự rung động của thân, thấy biết toàn thân.
Trong cả 4 oai nghi đó đều y trang một cái quán thân như vậy hết.
Cái căn bản của là phải tu nhiếp tâm cho an trú tâm vào hơi
thở hay bước đi kinh hành cho được trong một phút, rồi nghỉ 3, 4 phút,
rồi tu lại một phút khác. Chừng nào nhuần nhuyển để vô một phút
là vô ngay, không còn trật vuột, vô thật dễ dàng, tự nhiên, nhanh
chóng, đúng y. Mà muốn quán được
thân này thì phải ở trên Định Niệm Hơi Thở mà quan sát.
BÀI THỨ NĂM: DẠY MỘT TU SINH NAM
BÀI THỨ SÁU: DẠY LỚP TU SINH NƯ
Người nào mới vô quán liền có tưởng thì thôi đừng tu 4 Niệm
Xứ, hãy tu xả, có tưởng vô thì
tu tâm xả chứ không khéo thì
không được. Xả rồi lần lần đến khi tâm
quay vô và khi nó định tỉnh trên thân nó quán thân, nó tự quán chứ mình không có tập
luyện trên đó, mình không tự tập mà tự tâm quay vô nó quán thân
nó như vậy.
Suốt trong 12 tiếng đồng hồ, thấy tâm luôn luôn quán trên thân, có đầy đủ sự hỉ lạc thì đâu còn ham ngủ,
đâu còn vọng tưởng gì như vậy chứng được chơn lí rồi. Trong khi muốn
quán được như vậy thì phải giữ độc
cư.
TRẢ LỜI CÁC CÂU HỎI CỦA LỚP TU SINH NỮ
Khi quán đúng rồi thì không bao giờ khởi ra một niệm nào xen
vô trong khi quán, dù là khi đi hay đứng hay ngồi, nằm. Tâm lúc nào
cũng im re chỉ còn cái quán thân thôi. Rất tỉnh, hoàn toàn biết từ
đầu tới chân rất rõ. Không có niệm là quán đúng, có niệm là quán
chưa đúng, quán trật.
Chánh nghiệp (oai nghi tế hạnh) - Oai nghi tế hạnh
của người tu tập thì ngồi chơi cũng phải trong oai nghi thẳng lưng đúng
cách. Chánh Nghiệp thì đi đứng nằm ngồi phải đúng oai nghi.
TU TÂM XẢ
Tu tâm xả thì pháp tác
ý là đệ nhất pháp: “Tác ý một
tướng khác tướng kia thì tướng kia bị diệt”. Tâm xả nhờ tác ý
nhiều nhất. Khi xả rồi thì nó trở
về quán thân theo 4 Niệm Xứ, trở về trên thân chứ không chạy đi
đâu hết, nó thấy thân rung động chứ không mất điều đó được.
Lưu ý hai phần: phần xả là
có chướng ngại thì xả, còn phần yên lặng thì nó ở đâu? Vậy phần yên lặng không chướng ngại
thì nó phải ở trên thân nó. Pháp
xả thì giặc tới mới đánh, không tới thì thôi. Giặc sanh tử là hôn trầm, thùy miên, loạn tưởng, cảm thọ
khổ ưu...
Nếu đang ở trên 4 Niệm Xư mà có cảm thọ này kia thì phải tu tâm
xả chứ không tu qua n thân theo 4 Niệm Xứ được. Có cảm thọ là vì nhiếp tâm có sai, tức là quán
thân có cái gì quán chưa đúng cho nên không nhiếp phục được tham ưu.
BÀI THỨ BẢY: DẠY LỚP TU SINH NAM
Xả tâm thì cần biết cách để xả. Có 4 pháp dùng để xả tâm tức là Định Vô Lậu, Định Sáng Suốt,
Định Chánh Niệm Tỉnh Giác và Định Niệm Hơi Thở. Vững vàng trong 4 pháp
đó thì tu tâm xả. Ngồi chơi mà xả tâm. Nhưng phải rành 4 pháp đó. Nếu chưa rành, chưa thuần thục thì
phải tập cho rành, cho thuần thục mới đi vào tâm xả.
PHÁP 4 NIỆM XỨ
“Cảm giác toàn thân tôi biết tôi hít vô; cảm giác toàn thân,
tôi biết tôi thở ra”, nghĩa là nương
vào hơi thở mà cảm nhận thân của mình gọi là trên thân quán
thân. Quán toàn diện cơ thể
chúng ta chứ không phải chỉ một phần nào của cơ thể.
Quán 4 Niệm Xứ nhiếp phục tham ưu mà lại có niệm khởi,
có mõi mệt, có hôn trầm thùy miên... như vậy là quán 4 Niệm Xứ
không đúng. Hễ quán 4 Niệm Xứ đúng thì nó nhiếp phục, mà không
đúng thì làm sao nó nhiếp phục được. Không đúng trong nhiều cách.
Trở về tâm xả thì ngồi chơi. Không có chỗ nương tựa mà
chỉ ngồi chơi. Ngồi chơi mà luôn luôn phải tỉnh thức, luôn luôn quan sát có niệm nào, có cảm thọ gì
xẩy ra trên thân tâm của thì mau mau dùng các pháp khác mà diệt
trừ, không được để nó kéo dài tác động trên thân thọ tâm. Nếu bị
hôn trầm thùy miên thì đứng dậy đi kinh hành.
Trước tiên muốn quán thân trên thân thì phải tập quán thân trên thân bằng pháp đi kinh
hành trước, bởi thân hành trong khi đi thô còn hơi thở thuộc thân
hành nội, vi tế hơn nhiều cho nên nhiều khi ngồi hít thở chỉ cảm nhận
có phần trên thân, từ bụng trở lên chứ phần chân không cảm thấy
rung động. Đó là quán thân trên thân “Cảm giác toàn thân tôi biết tôi đi kinh hành”. Thân của
mình từ chân lên đầu lắc qua lắc lại, rung động toàn thân.
Đầu tiên muốn quán thân được thì chỉ có pháp đi kinh hành mới dễ quán thôi, chứ đầu tiên mà vào
ngồi quán thân theo hơi thở thì rất khó. Sau khi quán được sự rung động nhỏ nhặt vi tế của thân
rồi, chừng đó ngồi quán thân rung động nhẹ nhàng theo hơi thở mới
được dễ dàng. Đã có sức tỉnh thức trên pháp đi kinh hành. Tập từ
cái thô được rồi thì qua cái vi tế trong hơi thở, quán mới đúng, chứ
không khéo nói quán mà thực sự lại ức chế thì đã tu sai.
4 Niệm Xứ là phương pháp nhiếp phục, đâu còn chướng ngại
nữa và suốt thời gian đó tâm quay
vô không phóng dật. Quay vô mới quan sát chứ quay ra làm sao quan
sát được. Nó quay vô quan sát thì nó phải ở trên thân, mà ở trên thân thì nó không phóng dật.
4 Chánh Cần, ngăn ác diệt ác sanh thiện tăng trưởng
thiện. Tức còn ác tác động. Còn 4
Niệm Xứ thì nó tự nhiếp phục được tất cả các niệm đó. Nó cao
hơn 4 Chánh Cần. 4 Chánh Cần là phương pháp đầu tiên còn 4 Niệm Xứ
là phưong pháp cuối cùng để chứng đạo.
4 Niệm Xứ thì luôn luôn lúc nào cũng quán thân hết. Đi cũng quán, ngồi cũng quán, nằm cũng
quán, quán hết. Nhưng quán làm sao cho không có niệm chứ có thì phải trở về 4 Chánh Cần.
4 Chánh Cần mới ngăn diệt bịnh, không phải 4 Niệm Xứ
Cái gì cần làm phải làm xong trước
Căn bản khác nhau giữa 4 Chánh Cần và 4 Niệm Xứ
Phải tu chuyên một oai nghi
BÀI THỨ TÁM: DẠY MỘT TU SINH NAM
PHÁP TỨ NIỆM XỨ
Tiến trình thực hành quán 4 Niệm Xứ
Quán thân thọ tâm pháp, 4
niệm xứ, thì đức Phật không thể nào nói một lượt 4 pháp, nhưng khi
tu tu 4 cái một lượt cho nên
tâm sẽ chạy, một lúc thì ở thân, một lúc ở thọ, một lúc ở tâm,
một lúc ở pháp.
Bây giờ nhắc “Tâm thanh thản, an lạc, vô sự”,
tức trạng thái tâm 4 Niệm Xứ,
thì lúc đó yên lặng, không có niệm gì thì nó sẽ thấy hơi thở là
thân hành của nó. Nhưng không tu hơi thở thì đừng bám vô hơi thở,
bằng không thì bị ức chế. Cho nên nó thấy hơi thở thì nó bắt đầu
thấy cái thân.
Bây giờ không có cảm thọ trên thân, không có tâm niệm
khởi lên, không có pháp bên ngoài tác động nó thì nó sẽ thấy được hơi thở rồi nó thấy
thân của nó lên xuống lên xuống. Một hơi sau thì nó lãng đãng chạy
ra bên ngoài, nếu bên ngoài có pháp. Còn nếu nó không chạy đi đâu
thì được an trú tâm ở thanh thản, an lạc, vô sự. Rồi một hơi sau nó
lại chạy theo con mắt thấy cây, cỏ... là nó đang quán cây, cỏ...
nhưng nó không dính. Nó không nghĩ cây này tốt, cây kia cao thấp này
nọ... hay hôm nay trời trong hay mây nhiều... thì đó là nó đang quán
trời, mây. Còn nó thấy cây tốt đẹp, trời mưa nắng... là nó dính
mắc, thấy sắc dính sắc. Đó là sai. Không phải nó quán mà nó đang
dính mắc. Khi nó khởi phân biệt đối tượng này kia của sắc trần thì
ngay đó tác ý liền, chấm dứt không cho nó dính các sắc pháp trần.
Đó gọi là quán pháp. Nó luôn
luôn bảo vệ đem lại sự thanh thản, an lạc, vô sự... Đó gọi là tu 4 Niệm Xứ.
Khi đi ra ngoài, thấy mọi cái chung quanh, tâm không khởi niệm nào, thấy thoái mái như vậy là đúng cách quán 4 Niệm Xư
Tu 4 Niệm Xứ là khi thì nhận ra cái thân, khi thì tai nghe,
khi thì mắt thấy... nhưng đừng phân
biệt. Hễ phân biệt là bị dính
mắc, bị phóng dật trên niệm phân biệt. Ngay cả trên thân cũng
đừng phân biệt, thí dụ như “thân
này bây giờ yên ổn quá”, “Nó
thanh thản quá”. Nó yên ổn biết nó yên ổn, nó thanh thản biết
nó thanh thản, đừng nghĩ đang yên ổn, đang thanh thản. Nghĩ là trật.
Chẳng hạn khi ngồi trên xe
chạy trong phố, mắt thấy các bảng
hiệu, tâm khởi đọc liên tiếp bảng hiệu trên các phố tiệm. Khi
mắt thấy các bảng hiệu thì tâm muốn đọc để nó hiểu các bảng đó
nói gì. Đó là bị dính mắc. Bị
phóng dật trên các bảng đó. Còn bây giờ thấy mà không cần đọc,
thấy biết có các bảng đó thôi, không cần đọc, như vậy mới là quán pháp theo 4 Niệm Xứ. Giữ
tâm không phóng dật thì vẫn
thấy, vẫn nghe... như người bình thường nhưng KHÔNG PHÓNG DẬT.
Không tu hơi thở nhưng tâm
quán trên thân thì phải thấy hơi
thở.
Vượt chướng ngại bằng pháp tác ý;
4 Niệm Xứ là tu trong cả 4 oai nghi, vậy nếu chỉ ngồi liên tục sinh đau nhức là
chướng ngại pháp thì làm sao. Trên 4 Niệm Xứ đâu cho có chướng ngại
pháp được. Trong thời gian tu chứng đạo, để thắng vượt qua 5 ấm ma thì cũng phải dùng pháp tác ý để đuổi.
Đầu tiên thì vượt qua dục của ý thức, sau đó vượt qua dục của tưởng thức. Tất cả đều dùng pháp tác ý mà đuổi. Không
thể tác ý kiểu chung chung được mà phải đúng tên, đúng tướng trạng
của nó.
4 Niệm Xứ, giải thích cách khác
Nhưng để khỏi lầm lạc qua Chánh Niệm Tỉnh Giác thì tỉnh giác là ở
trên thân hành của nó, hơi thở hoặc bước đi, hoặc tay chân của đưa
ra đưa vô, đó là tỉnh giác. Định
Niệm Hơi Thở thì trụ trên đề mục của nó, còn 4 Niệm Xứ thì không trụ, nó cùng lúc ở trên 4 chỗ chứ
không trụ trên chỗ nào hết. Cái tâm ở đâu thì biết ở đó mà khởi
ý biết ở đó thì sai pháp 4 Niệm Xứ.
Ý ló đâu thì ló, đừng
khởi niệm thì tâm thanh thản. Thanh thản thuộc về tâm, còn an lạc
thuộc về thân. An lạc không
nằm ở chỗ nào trong 3 thọ thuộc thân: lạc, khổ, bất lạc bất khổ. Còn
vô sư thì cả tâm vô sự mà
thân cũng vô sự. Vô sự là chỉ
cho thân và tâm không làm việc gì hết. “không chấp nhận ba cảm thọ
này” Khi nói người li dục li ác pháp thì người này phải có
cái hĩ li dục li ác pháp của
nó. Anh chưa li hết thì anh còn cái tâm bất thọ lạc bất thọ khổ.
BÀI THỨ CHÍN: DẠY LỚP TU SINH NỮ
“Cảm giác toàn thân tôi biết tôi hít vô; cảm giác toàn thân
tôi biết tôi thở ra” hay là “Cảm
giác thân hành tôi biết tôi bước đi” nghĩa là tôi bước đi thân tôi rung động như thế nào tôi biết như thế ấy. Đó là tập quán chứ chưa tỉnh thức, một
thời gian sau được thuần thục rồi mới là tỉnh thức; một thời gian
tỉnh thức được rồi thì nó mới định tỉnh. Phải có thời gian.
Phật dạy 4 oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi. Ngồi phải tu sau cùng bởi vì ngồi là lúc chúng ta định tỉnh
rồi. Định tỉnh mới ngồi. Đi chưa tỉnh thức thì sao định tỉnh được. Trong
khi đi thì thân rung động, tập quán toàn thân dễ quán được.
BÀI THỨ MƯỜI: DẠY LỚP TU SINH NAM
Nếu được nhiếp tâm và an trú tâm trên
thân và quán thân được rồi thì nó phải nhiếp phục được tham ưu. Bây giờ thấy ưu phiền còn nghĩa
là còn niệm này kia tức là chưa quán thân được.
Thời gian tu 4 Niệm Xứ là 5 phút thì giữ đúng
5 phút, đừng tăng lên. Lúc nào trong 5 phút đó cũng đều khắc phục được tham ưu, tức là
không niệm mà không mõi mệt, nghe trong thân thoái mái dễ chịu,
không có gì chướng ngại thì đã tu đúng.
4 Niệm Xứ, trên thân quán thân, tại vì quán thân có 3 giai đoạn, giai đoạn đầu tập quán để biết cách quán cho đúng vì chưa
biết cách, như bây giờ cứ nhìn thân gọi là quán là không được mà phải
quán như thế nào thì đức Phật đã dạy cho chúng ta: “Cảm giác toàn thân tôi biết tôi hít
vô; cảm giác toàn thân tôi biết tôi thở ra”, phải sau một thời gian tu tập một tháng, hai tháng thì sức
tỉnh thức trên thân mới có, chứ không phải chỉ mới biết một hai lần
hoặc một hai ngày cho là đã quán được thân. Không phải đâu.
Còn phải tập cho thuần, cho nhuần nhuyễn, mà khi đã được nhuần
nhuyễn rồi thì mới tỉnh thức.
Khi tỉnh thức rồi thì vẫn tiếp tục tập ở trên quán thân đó nữa.
Tập cho đến khi tâm được định tỉnh
trên thân các con. Khi định tỉnh được thì nó nhu nhuyến dễ sử dụng
tức là nó có 7 năng lực giác chi.
BÀI THỨ MƯỜI MỘT: DẠY LỚP TU SINH NỮ
“Ta thành chánh giác là nhờ tâm không phóng dật”. Vậy tâm
không phóng dật là cái gì? Đó là lúc
nào tâm cũng quay vô ở trên thân của no, nó biết thân rung
rinh, động đậy; nó biết thân di chuyển như thế nào như thế nào một
cách rõ ràng. Hãy để tự nhiên mà
nó đi vào thì lúc bấy giờ tâm không phóng dật, lúc nào tâm
cũng quay vô nhìn thân của nó rung động thôi.
Đi kinh hành, đi một cách tự nhiên, nghe thân rung động, rung
chuyển dễ dàng; còn ngồi im
lặng thì nghe hơi thở của mình, rồi cũng thấy thân rung động nhẹ
nhàng. Đó là tâm quay vô, mà
khi thường xuyên quay vô như vậy thì đó là thành tựu.
Thí dụ Thầy ngồi đây nhìn ra
như vầy mà Thầy cảm nhận được ngón chân của Thầy, rồi cảm nhận
được cái mũi, cái trán, tóc của Thầy. Tức là từ dưới chân lên
tới đỉnh đầu đều cảm nhận mà
không cần phải thấy rung.
Khi ngồi yên mà không có một niệm gì khởi ra trong
tâm mà nó không có một chướng
ngại gì trên thân, tức là tâm an
trú. Tâm an trú là tâm không có niệm. Bây giờ ngồi, thấy toàn
thân từ đầu chí chân, thấy cái
tâm quay vô quan sát cái thân, hoặc thấy hơi thở ra, vô tự nhiên
mà trong khoảng thời gian một phút không có niệm gì xảy ra trong đó, vẫn
thấy duy nhất là tâm thấy được thân, nó quay vô trên thân nó. Đó
là 1 phút an trú.
Không phóng dật mình phải sống tự nhiên, đi biết mình đi, đứng biết mình đứng, ngồi biết
mình ngồi. Nhưng đi, đứng, nằm, ngồi đều biết thân rõ ràng, tâm mình biết thân từ đầu tới chân,
mỗi hành động đều biết rõ ràng.