Thứ Bảy, 22 tháng 3, 2025

BẬC BA MINH DẠY TU CHÁNH NIỆM TỈNH GIÁC

 BẬC BA MINH DẠY TU CHÁNH NIỆM TỈNH GIÁC (Giai đoạn tiếp Tứ Chánh Cần)

BÀI THỨ NHẤT : DẠY TU SINH NAM NỮ CHUNG

BÀI THỨ HAI : DẠY BỐN TU SINH NAM

Hướng dẫn căn bản NGỒI QUÁN THÂN TRÊN THÂN THEO TỨ NIỆM XƯ

Muốn ngồi tu Tứ Niệm Xứ, trong Định Niệm Hơi Thở: “Cảm giác toàn thân tôi biết tôi hít vô, cảm giác toàn thân tôi biết tôi thở ra”, nghĩa là hít vô thở ra nhưng cảm nhận cảm giác toàn thân. Đó là giai đoạn đầu, còn bây giờ đã rành rồi thì tác ý như thế này “Tâm quay vô nhìn thân, quan sát thân của mình”, rồi bắt đầu lắng, yên lặng thì thấy nó quay vô, tức là nó quay vô. Khi no quay vô thì nó tỉnh thức trên thân liền.

Thấy được thân từ đầu cổ xuống hai vai và lưng, ngực, bụng, hai vế, cẳng chân, bàn chân đang kiết già; nghĩa là cảm nhận và thấy toàn bộ thân. Bây giờ làm sao giữ cho hình ảnh thân qua cảm nhận và thấy đó được cụ thể rõ ràng trong tâm đúng với thực tế, đó là thấy thân như thật. Toàn thân từ mông lên ngực bụng đầu đều có rung động đẩy lên nở ra khi hít vào và khi thở ra thì thu trở về, xẹp xuống lại. Các chuyển động rung động đó lan truyền nhè nhẹ xuống hai chân kiết già. Nói chung toàn bộ thân đều có rung động theo hơi thơ. Cảm nhận thấy thân, cảm nhận thấy sự rung động của thân. Tất cả đều rõ ràng, cụ thể. Đó là đã “Quán thân trên thân”, nương vào hơi thở để thấy sự rung động của thân trên thân.

Bây giờ tu quán thân trên thân theo Tứ Niệm Xứ, lấy tâm để quan sát thân trong tác động của hơi thở; tâm có niệm hay không có niệm không quan trọng; đừng quên cảm nhận toàn thân của mình. Nếu quên thì nhắc lại câu pháp hướng lần nữa. (“Tâm quay vô nhìn bốn chỗ thân, thọ, tâm, pháp”). Đây là lúc tập quán thân trên thân, chứ chưa diệt niệm khắc phục tham ưu. Tập quán trước đã.

Đây là tập tỉnh thức trên cái quán. Tu Tứ Niệm Xứ là tập quán thân, thọ, tâm, pháp. Quán là ngầm tỉnh thức trên đó. Sau đó dùng pháp tác ý cho tâm quay vô, vừa quay vô là nó quán liền để tỉnh thức trên đề mục quán thân. Rồi mới tới giai đoạn xả, tức là giai đoạn nhiếp phục tham ưu.

Trên thân quán thân để nhiếp phục tham ưu”. Nghe dường như làm một lượt vừa quán vừa nhiếp phục, nhưng mình phải ngắt làm hai bước, tu tập từng bước cho nó dễ. Bước đầu mình phải tập quán sát trên pháp tỉnh thức; sau khi thấy tỉnh được rồi thì tới bước thứ hai mới bắt đầu nhiếp phục tham ưu, tức là giai đoạn tỉnh thức được rồi thì mới tới giai đoạn nhiếp. Phải tu từng giai đoạn.

Cảm nhận tức là cái tâm của mình gom lại, quay vô quan sát từ trên xuống dưới, từ dưới lên trên. Nó không đứng ở chỗ nào cả.

Tập sao để khi vừa thấy có niệm thì tâm quay lại cảm nhận thân để tỉnh thức trên thân. Mà khi quay lại quan sát thân kĩ lưỡng, niệm không có, chỉ nương theo biết hơi thở, nhờ sự động dụng của hơi thở vô ra đó mà nó thấy từ trên đầu xuống tới dưới chân hay từ dưới chân lên đầu, nghĩa là cảm nhận toàn thân cùng lúc, toàn bộ từ trên xuống từ dưới lên.

Bây giờ chỉ tập ngồi quan sát thân, thọ, tâm của mình theo hơi thở. Khi đã thành thục thì mới đổi oai nghi như đi quan sát thân, thọ, tâm của mình; đứng quan sát thân, thọ, tâm của mình; nằm quan sát thân, thọ, tâm của mình. Tập từng oai nghi để rồi ráp lại, chứ không thể nào giõi mà tập cùng lúc tất cả 4 oai nghi được. Tập từng hành động cho đến khi quen. Tập tỉnh thức trong mỗi hành động đó cho được, rồi mới bắt đầu mở cuộc chiến đấu để dẹp giặc sanh tử của mình.

Tứ Niệm Xứ, tức là làm sao để biết toàn thân hành trong suốt thời gian 1 hay 2 giờ. Quan sát tức quán trong khi rất tỉnh, rồi sau đó mới tới diệt tham ưu, tức là làm cho ưu phiền hết. Không ưu phiền thì nhiếp thân vô trong hơi thở. Nhiếp vào toàn thân là đúng, quay về toàn thân là đúng, đó chính la quán thân.

Phải mở mắt mà tập quán, đừng nhắm mắt. Quán thân là tập tỉnh thức trên thân, sau này kéo dài cái biết thân để được định tỉnh trên thân. Nghĩa là từ quán thân đi đến tỉnh thức; từ tỉnh thức mới đi đến định tỉnh. Phải đi mấy giai đoạn mới định tỉnh. Định tỉnh thì tâm nhu nhuyến dễ xữ dụng.

Cảm giác thân hành toàn thân. Khi mình hít vô hay thở ra cảm thấy có sự rung động là cảm nhận trên hành động của toàn thân chứ không phải là cảm nhận một khối toàn thân.

Pháp Tứ Niệm Xứ lúc đầu còn tác ý cảm giác toàn thân, nhưng sau thì không dùng pháp tác ý nữa mà dùng pháp hướng tâm ra lệnh: “Tâm không phóng dật, quay vô nhìn thân! Quan sát thân!”. Ra lệnh xong rồi tác ý “Tâm thanh thản, an lạc, vô sư”. Lắng nghe thì thấy tâm thanh thản an lạc vô sự. Lắng là mình thấy nó quan sát. Hướng tâm thì nhanh lắm, không cần xữ dụng tác ý.

Vừa mới ngồi xong là bảo tâm quay vô: “Tâm thanh thản an lạc vô sự, quan sát trên thân, thọ, tâm, pháp.” Ra lệnh như vậy, rồi ngồi lặng yên thì thấy tâm quay vô. Bảo nó quay vô thì thấy tâm quay vô nhìn thân; rồi bắt đầu thấy toàn thân rung động ăn nhịp với hơi thở vô ra, vô ra.

Sau đó không cần hơi thở nữa, mà nó vẫn tỉnh thức quan sát trên toàn thân của nó; không có gì làm mất sự quan sát đó được. Mà nó quan sa t nhẹ nhàng lắm. Có hai phần thật sự: thân đang ngồi và tâm đứng ở ngoài nhìn thân. Luôn luôn nhìn thân chứ nó không nhìn chỗ khác. Nó chú ý nhìn cái thân đang ở đó. Nó yên lặng. Đó là cách thức quan sát Tứ Niệm Xứ đã được định tỉnh. Tâm đã định trên thân mà quan sát cái thân. Tâm định tỉnh.

Bây giờ tập để định trên thân hành, để tỉnh thức trên thân hành, sau đó mới tới giai đoạn định tỉnh. Lúc đầu tập cảm nhận thân của mình rồi sau đó mới tỉnh thức; tỉnh thức rồi mới tới định tỉnh.

Chỗ quan trọng của Tứ niệm Xứ là tập cho tâm không phóng dật thì tâm ở đâu? Thì nó phải ở trên tứ niệm xứ của nó chứ ở đâu! Giờ mình xữ dụng pháp Tứ Niệm Xứ cho nó không phóng dật thì nó phải “phóng” trên tứ niệm xứ chứ đâu; nó phải tỉnh thức trên tứ niệm xứ mới thành tựu. “Tâm định trên thân

Khi ngồi trong một tư thế nào lâu mà bị chướng ngại đau nhức gì thì có thể thay đổi thế ngồi nhưng trong lúc đó không rời, không ngắt đoạn, không gián đoạn sự quan sát thân. Trong khi thay đổi 4 oai nghi vẫn quan sát thân, tức là không phóng dật đó.

Khởi tập trong thế ngồi cho đến khi thuần thục rồi mới qua tập trong thế đi. Trong khi ngồi, nếu có bị các chướng ngại như bị hôn trầm thì dùng pháp đi kinh hành mà phá.

Khi tập tỉnh thức ở thế ngồi rồi thì sẽ tập tỉnh thức trong thế đi; tỉnh thức trong thế đi rồi thì tập tỉnh thức trong thế nằm; còn thế đứng thì cũng giống như thế ngồi thôi. Rồi khi đã tỉnh thức trong cả 4 oai nghi xong thì sẽ kết hợp tất cả bốn oai nghi lại.

Mỗi khi tâm phóng khởi niệm hay bị phóng dật thì tác ý “Tâm thanh thản an lạc vô sự, không phóng dật, hãy quay vô nhìn thân!”; hoặc “Tâm không phóng dật, nhìn thân! Tâm thanh thản, an lạc, vô sư

Tỉnh Thức tức là quan sát, tỉnh thức trên thân. Nói Quán thân trên thân khắc phục tham ưu chứ thật ra khi định tỉnh được thì nó tự khắc phục tham ưu trong pháp định tỉnh đó.

Sau khi thấy sự định tỉnh của mình trên thân, thọ, tâm, pháp, cụ thể rồi thì tất cả những pháp đã tu tập mấy lâu nay đều dẹp hết, không còn trở lui tu chúng nữa, mà chỉ còn ôm Tứ Niệm Xứ thôi. Hiện giờ nếu chưa có sức định tỉnh đó thì có thể trở lui tu tập các pháp đó cho thêm sung mãn. Nhưng khi đã vô chính pháp Tứ Niệm Xứ tu tập rồi thì phải ôm phao Tứ Niệm Xứ mà tu tập cho định tỉnh, đạt cho được định tỉnh, phải dùng Tứ Niệm Xứ để chiến đấu, chiến thắng giặc hôn trầm thùy miên.

BÀI THỨ BA: DẠY MỘT TU SINH NAM

Khi ngồi lâu sinh những cảm thọ này kia thì hãy xả ra, đứng dậy đi, đừng ngồi nữa. Mình đang tập quán thân thì đi mà vẫn quan sát thân. Khi mới ngồi tu Tứ Niệm Xứ thì đừng để thọ niệm xứ cũng như tâm niệm xứ xen vào lúc đang quan sát thân niệm xứ.

Khi đi vẫn quán thân, nhưng khác với lúc ngồi; lúc ngồi thì quán thân nương vào hơi thở, bây giờ đi thì quán thân nương vào bước đi, chứ không nương vào hơi thở. Cũng cảm biết toàn bộ thân từ trên đầu xuống tới chân, từ chân lên tới trên đầu trong lúc chân bước đi, không lưu tâm tới bước đi, tập trung tâm vào trên toàn thân.

Quán thân đến khi không có những cái tham ưu gì khác thì chỉ còn quán thân thôi. Như vậy mới đi đến định tỉnh, tâm định trên thân.

BÀI THỨ TƯ: DẠY MỘT TU SINH NAM

QUÁN THÂN TRÊN THÂN THEO OAI NGHI ĐI, ĐỨNG, NẰM.

Ở đây mình mới tập quán thân, coi quán được hay không. Nó quan trọng là ở chỗ QUÁN THÂN. Quán thân là cảm giác toàn thân chứ không phải là đứng ở một điểm nào trên thân, mà phải ở toàn thân. Đó là điều quan trọng của sự tu tập Tứ Niệm Xứ, “Quán thân trên thân để khắc phục tham ưu”. Khi quán được thì nó nhiếp phục được niệm, không còn một niệm gì hết, bởi vì pháp Tứ Niệm Xứ đặc biệt vô cùng.

Tâm quay vô quan sát trên thân không ngưng nghỉ suốt trong thời gian tu thì nó nhiếp phục được tham ưu. Cho nên tâm không phóng dật là tâm đã nhiếp phục được tham ưu.

Tu tâm xả thì ngồi chơi mà có niệm gì, có chướng ngại gì thì đuổi như là tu Tứ Niệm Xứ trên 4 Chánh Cần cho chắc ăn. Nhưng khi tâm yên lặng thì nó quay vô quan sát thân nó. Đầu tiên khi mình ngồi thì nó thấy hơi thở, nhưng đừng có bám vào hơi thở, thấy hơi thở thì mặc nó, chỉ quan sát trên thân mà thôi. Thế thì cũng giống như Tứ Niệm Xứ.

Nó quan sát thân y như một ngọn đèn từ xa rọi chiếu vào thân, thấy rõ ràng toàn thân mà khi định tỉnh càng cao thì nó thấy thân nó càng rõ ràng hơn. Đó là định tỉnh.

Quán thân trong oai nghi ngồi không gián đoạn không niệm khởi trong thời gian 30 phút được rồi, thì bắt đầu tập quán thân trong oai nghi đi; rồi trong oai nghi đứng; trong oai nghi nằm, oai nghi nào cũng quán được 30 phút hết. Sau đó tu thay đổi từ oai nghi này sang oai nghi khác. Cứ ngồi 5 phút thì đứng dậy đi 5 phút; đứng lại 5 phút; nằm xuống 5 phút. Lúc nào cũng giữ tâm trên thân được như vậy và cứ giữ tiếp tục để cho nó quán thân trên thân liên tục không gián đoạn mỗi khi thay đổi oai nghi, không nhất thiết theo một thứ tự nào. Nằm, ngồi, đi, đứng, oai nghi nào cũng đều quán thân trên thân được không thay đổi, không mất niệm thân.

Khi đi muốn cho tâm chỉ biết thân rung động thôi thì để 2 tay sau lưng hoặc khoanh tay trước bụng rồi đi sẽ thấy sự rung động của nó cụ thể.

Trước khi đi nên đứng yên lặng một lúc để cảm nhận toàn thân từ trên đầu xuống chân và từ chân lên đầu. Thấy toàn bộ thân đang đứng. Thấy thân rung động theo hơi thở vô ra, cũng tương tự như khi ngồi tu 4 Niệm Xứ. Giữ cảm nhận đó rõ ràng không thay đổi trong tâm. Thấy biết thân con như thật, đúng y như nó đang đứng đó, không có gì tưởng tượng.

Sau khi thấy biết thân trong khi đứng rõ ràng cụ thể như thế rồi con mới bắt đầu đi để quán thân trong oai nghi đi. Phải đi chậm, khá chậm thì mới quán thân kĩ lưỡng, không bỏ sót. Thấy sự chuyển động của thân liên tục không gián đoạn khi chân trái bước rồi chân phải bước. Toàn thân di chuyển tới liên tục với dạng chuyển động khi xàng qua phải (chân trái bước), khi xàng qua trái (chân phải bước) nhịp nhàng, nhịp nhàng trong khi đi.

Nếu kinh hành tỉnh giác thì chỉ chú ý vào sự chuyển động của hai chân, nhưng ở đây quán thân trong khi đi vậy thì phải thấy toàn bộ thân trong suốt tiến trình bước tới của mỗi chân, của hai chân. Phải thấy biết thân từ đầu xuống chân trong bất kỳ giây phút nào của bước đi, chân này rồi chân kia liên tục chuyển động bước tới.

Nằm tu Tứ Niệm Xứ thì phải nằm kiết tường nghĩa là nằm nghiêng trên hông bên phải, bàn tay phải lót đầu, tay trái xuôi theo thân, hai chân thẳng chồng lên nhau. Trong khi nằm thì quán thân nương vào hơi thở. Hơi thở làm thân rung động máy động để nhận thấy biết toàn thân theo sự rung động này. Giữ hình ảnh toàn thân trong tâm mà không mất niệm hơi thở, không bị hôn trầm thuỳ miên, không phóng niệm. Ở trong một trạng thái bất động yên lặng mà cảm nhận rõ ràng cụ thể sự rung động của thân, thấy biết toàn thân.

Trong cả 4 oai nghi đó đều y trang một cái quán thân như vậy hết.

Cái căn bản của là phải tu nhiếp tâm cho an trú tâm vào hơi thở hay bước đi kinh hành cho được trong một phút, rồi nghỉ 3, 4 phút, rồi tu lại một phút khác. Chừng nào nhuần nhuyển để vô một phút là vô ngay, không còn trật vuột, vô thật dễ dàng, tự nhiên, nhanh chóng, đúng y. Mà muốn quán được thân này thì phải ở trên Định Niệm Hơi Thở mà quan sát.

BÀI THỨ NĂM: DẠY MỘT TU SINH NAM

BÀI THỨ SÁU: DẠY LỚP TU SINH NƯ

Người nào mới vô quán liền có tưởng thì thôi đừng tu 4 Niệm Xứ, hãy tu xả, có tưởng vô thì tu tâm xả chứ không khéo thì không được. Xả rồi lần lần đến khi tâm quay vô và khi nó định tỉnh trên thân nó quán thân, nó tự quán chứ mình không có tập luyện trên đó, mình không tự tập mà tự tâm quay vô nó quán thân nó như vậy.

Suốt trong 12 tiếng đồng hồ, thấy tâm luôn luôn quán trên thân, có đầy đủ sự hỉ lạc thì đâu còn ham ngủ, đâu còn vọng tưởng gì như vậy chứng được chơn lí rồi. Trong khi muốn quán được như vậy thì phải giữ độc cư.

TRẢ LỜI CÁC CÂU HỎI CỦA LỚP TU SINH NỮ

Khi quán đúng rồi thì không bao giờ khởi ra một niệm nào xen vô trong khi quán, dù là khi đi hay đứng hay ngồi, nằm. Tâm lúc nào cũng im re chỉ còn cái quán thân thôi. Rất tỉnh, hoàn toàn biết từ đầu tới chân rất rõ. Không có niệm là quán đúng, có niệm là quán chưa đúng, quán trật.

Chánh nghiệp (oai nghi tế hạnh) - Oai nghi tế hạnh của người tu tập thì ngồi chơi cũng phải trong oai nghi thẳng lưng đúng cách. Chánh Nghiệp thì đi đứng nằm ngồi phải đúng oai nghi.

TU TÂM XẢ

Tu tâm xả thì pháp tác ý là đệ nhất pháp: “Tác ý một tướng khác tướng kia thì tướng kia bị diệt”. Tâm xả nhờ tác ý nhiều nhất. Khi xả rồi thì nó trở về quán thân theo 4 Niệm Xứ, trở về trên thân chứ không chạy đi đâu hết, nó thấy thân rung động chứ không mất điều đó được.

Lưu ý hai phần: phần xả là có chướng ngại thì xả, còn phần yên lặng thì nó ở đâu? Vậy phần yên lặng không chướng ngại thì nó phải ở trên thân nó. Pháp xả thì giặc tới mới đánh, không tới thì thôi. Giặc sanh tử là hôn trầm, thùy miên, loạn tưởng, cảm thọ khổ ưu...

Nếu đang ở trên 4 Niệm Xư mà có cảm thọ này kia thì phải tu tâm xả chứ không tu qua n thân theo 4 Niệm Xứ được. Có cảm thọ là vì nhiếp tâm có sai, tức là quán thân có cái gì quán chưa đúng cho nên không nhiếp phục được tham ưu.

BÀI THỨ BẢY: DẠY LỚP TU SINH NAM

Xả tâm thì cần biết cách để xả. Có 4 pháp dùng để xả tâm tức là Định Vô Lậu, Định Sáng Suốt, Định Chánh Niệm Tỉnh Giác và Định Niệm Hơi Thở. Vững vàng trong 4 pháp đó thì tu tâm xả. Ngồi chơi mà xả tâm. Nhưng phải rành 4 pháp đó. Nếu chưa rành, chưa thuần thục thì phải tập cho rành, cho thuần thục mới đi vào tâm xả.

PHÁP 4 NIỆM XỨ

Cảm giác toàn thân tôi biết tôi hít vô; cảm giác toàn thân, tôi biết tôi thở ra”, nghĩa là nương vào hơi thở mà cảm nhận thân của mình gọi là trên thân quán thân. Quán toàn diện cơ thể chúng ta chứ không phải chỉ một phần nào của cơ thể.

Quán 4 Niệm Xứ nhiếp phục tham ưu mà lại có niệm khởi, có mõi mệt, có hôn trầm thùy miên... như vậy là quán 4 Niệm Xứ không đúng. Hễ quán 4 Niệm Xứ đúng thì nó nhiếp phục, mà không đúng thì làm sao nó nhiếp phục được. Không đúng trong nhiều cách.

Trở về tâm xả thì ngồi chơi. Không có chỗ nương tựa mà chỉ ngồi chơi. Ngồi chơi mà luôn luôn phải tỉnh thức, luôn luôn quan sát có niệm nào, có cảm thọ gì xẩy ra trên thân tâm của thì mau mau dùng các pháp khác mà diệt trừ, không được để nó kéo dài tác động trên thân thọ tâm. Nếu bị hôn trầm thùy miên thì đứng dậy đi kinh hành.

Trước tiên muốn quán thân trên thân thì phải tập quán thân trên thân bằng pháp đi kinh hành trước, bởi thân hành trong khi đi thô còn hơi thở thuộc thân hành nội, vi tế hơn nhiều cho nên nhiều khi ngồi hít thở chỉ cảm nhận có phần trên thân, từ bụng trở lên chứ phần chân không cảm thấy rung động. Đó là quán thân trên thân “Cảm giác toàn thân tôi biết tôi đi kinh hành”. Thân của mình từ chân lên đầu lắc qua lắc lại, rung động toàn thân.

Đầu tiên muốn quán thân được thì chỉ có pháp đi kinh hành mới dễ quán thôi, chứ đầu tiên mà vào ngồi quán thân theo hơi thở thì rất khó. Sau khi quán được sự rung động nhỏ nhặt vi tế của thân rồi, chừng đó ngồi quán thân rung động nhẹ nhàng theo hơi thở mới được dễ dàng. Đã có sức tỉnh thức trên pháp đi kinh hành. Tập từ cái thô được rồi thì qua cái vi tế trong hơi thở, quán mới đúng, chứ không khéo nói quán mà thực sự lại ức chế thì đã tu sai.

4 Niệm Xứ là phương pháp nhiếp phục, đâu còn chướng ngại nữa và suốt thời gian đó tâm quay vô không phóng dật. Quay vô mới quan sát chứ quay ra làm sao quan sát được. Nó quay vô quan sát thì nó phải ở trên thân, mà ở trên thân thì nó không phóng dật.

4 Chánh Cần, ngăn ác diệt ác sanh thiện tăng trưởng thiện. Tức còn ác tác động. Còn 4 Niệm Xứ thì nó tự nhiếp phục được tất cả các niệm đó. Nó cao hơn 4 Chánh Cần. 4 Chánh Cần là phương pháp đầu tiên còn 4 Niệm Xứ là phưong pháp cuối cùng để chứng đạo.

4 Niệm Xứ thì luôn luôn lúc nào cũng quán thân hết. Đi cũng quán, ngồi cũng quán, nằm cũng quán, quán hết. Nhưng quán làm sao cho không có niệm chứ có thì phải trở về 4 Chánh Cần.

4 Chánh Cần mới ngăn diệt bịnh, không phải 4 Niệm Xứ

Cái gì cần làm phải làm xong trước

Căn bản khác nhau giữa 4 Chánh Cần và 4 Niệm Xứ

Phải tu chuyên một oai nghi

BÀI THỨ TÁM: DẠY MỘT TU SINH NAM

PHÁP TỨ NIỆM XỨ

Tiến trình thực hành quán 4 Niệm Xứ

Quán thân thọ tâm pháp, 4 niệm xứ, thì đức Phật không thể nào nói một lượt 4 pháp, nhưng khi tu tu 4 cái một lượt cho nên tâm sẽ chạy, một lúc thì ở thân, một lúc ở thọ, một lúc ở tâm, một lúc ở pháp.

Bây giờ nhắc “Tâm thanh thản, an lạc, vô sự”, tức trạng thái tâm 4 Niệm Xứ, thì lúc đó yên lặng, không có niệm gì thì nó sẽ thấy hơi thở là thân hành của nó. Nhưng không tu hơi thở thì đừng bám vô hơi thở, bằng không thì bị ức chế. Cho nên nó thấy hơi thở thì nó bắt đầu thấy cái thân.

Bây giờ không có cảm thọ trên thân, không có tâm niệm khởi lên, không có pháp bên ngoài tác động nó thì nó sẽ thấy được hơi thở rồi nó thấy thân của nó lên xuống lên xuống. Một hơi sau thì nó lãng đãng chạy ra bên ngoài, nếu bên ngoài có pháp. Còn nếu nó không chạy đi đâu thì được an trú tâm ở thanh thản, an lạc, vô sự. Rồi một hơi sau nó lại chạy theo con mắt thấy cây, cỏ... là nó đang quán cây, cỏ... nhưng nó không dính. Nó không nghĩ cây này tốt, cây kia cao thấp này nọ... hay hôm nay trời trong hay mây nhiều... thì đó là nó đang quán trời, mây. Còn nó thấy cây tốt đẹp, trời mưa nắng... là nó dính mắc, thấy sắc dính sắc. Đó là sai. Không phải nó quán mà nó đang dính mắc. Khi nó khởi phân biệt đối tượng này kia của sắc trần thì ngay đó tác ý liền, chấm dứt không cho nó dính các sắc pháp trần. Đó gọi là quán pháp. Nó luôn luôn bảo vệ đem lại sự thanh thản, an lạc, vô sự... Đó gọi là tu 4 Niệm Xứ.

Khi đi ra ngoài, thấy mọi cái chung quanh, tâm không khởi niệm nào, thấy thoái mái như vậy là đúng cách quán 4 Niệm Xư

Tu 4 Niệm Xứ là khi thì nhận ra cái thân, khi thì tai nghe, khi thì mắt thấy... nhưng đừng phân biệt. Hễ phân biệt là bị dính mắc, bị phóng dật trên niệm phân biệt. Ngay cả trên thân cũng đừng phân biệt, thí dụ như “thân này bây giờ yên ổn quá”, “Nó thanh thản quá”. Nó yên ổn biết nó yên ổn, nó thanh thản biết nó thanh thản, đừng nghĩ đang yên ổn, đang thanh thản. Nghĩ là trật.

Chẳng hạn khi ngồi trên xe chạy trong phố, mắt thấy các bảng hiệu, tâm khởi đọc liên tiếp bảng hiệu trên các phố tiệm. Khi mắt thấy các bảng hiệu thì tâm muốn đọc để nó hiểu các bảng đó nói gì. Đó là bị dính mắc. Bị phóng dật trên các bảng đó. Còn bây giờ thấy mà không cần đọc, thấy biết có các bảng đó thôi, không cần đọc, như vậy mới là quán pháp theo 4 Niệm Xứ. Giữ tâm không phóng dật thì vẫn thấy, vẫn nghe... như người bình thường nhưng KHÔNG PHÓNG DẬT.

Không tu hơi thở nhưng tâm quán trên thân thì phải thấy hơi thở.

Vượt chướng ngại bằng pháp tác ý;

4 Niệm Xứ là tu trong cả 4 oai nghi, vậy nếu chỉ ngồi liên tục sinh đau nhức là chướng ngại pháp thì làm sao. Trên 4 Niệm Xứ đâu cho có chướng ngại pháp được. Trong thời gian tu chứng đạo, để thắng vượt qua 5 ấm ma thì cũng phải dùng pháp tác ý để đuổi.

Đầu tiên thì vượt qua dục của ý thức, sau đó vượt qua dục của tưởng thức. Tất cả đều dùng pháp tác ý mà đuổi. Không thể tác ý kiểu chung chung được mà phải đúng tên, đúng tướng trạng của nó.

4 Niệm Xứ, giải thích cách khác

Nhưng để khỏi lầm lạc qua Chánh Niệm Tỉnh Giác thì tỉnh giác là ở trên thân hành của nó, hơi thở hoặc bước đi, hoặc tay chân của đưa ra đưa vô, đó là tỉnh giác. Định Niệm Hơi Thở thì trụ trên đề mục của nó, còn 4 Niệm Xứ thì không trụ, nó cùng lúc ở trên 4 chỗ chứ không trụ trên chỗ nào hết. Cái tâm ở đâu thì biết ở đó mà khởi ý biết ở đó thì sai pháp 4 Niệm Xứ.

Ý ló đâu thì ló, đừng khởi niệm thì tâm thanh thản. Thanh thản thuộc về tâm, còn an lạc thuộc về thân. An lạc không nằm ở chỗ nào trong 3 thọ thuộc thân: lạc, khổ, bất lạc bất khổ. Còn vô sư thì cả tâm vô sự mà thân cũng vô sự. Vô sự là chỉ cho thân và tâm không làm việc gì hết. “không chấp nhận ba cảm thọ này” Khi nói người li dục li ác pháp thì người này phải có cái hĩ li dục li ác pháp của nó. Anh chưa li hết thì anh còn cái tâm bất thọ lạc bất thọ khổ.

BÀI THỨ CHÍN: DẠY LỚP TU SINH NỮ

Cảm giác toàn thân tôi biết tôi hít vô; cảm giác toàn thân tôi biết tôi thở ra” hay là “Cảm giác thân hành tôi biết tôi bước đi” nghĩa là tôi bước đi thân tôi rung động như thế nào tôi biết như thế ấy. Đó là tập quán chứ chưa tỉnh thức, một thời gian sau được thuần thục rồi mới là tỉnh thức; một thời gian tỉnh thức được rồi thì nó mới định tỉnh. Phải có thời gian.

Phật dạy 4 oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi. Ngồi phải tu sau cùng bởi vì ngồi là lúc chúng ta định tỉnh rồi. Định tỉnh mới ngồi. Đi chưa tỉnh thức thì sao định tỉnh được. Trong khi đi thì thân rung động, tập quán toàn thân dễ quán được.

BÀI THỨ MƯỜI: DẠY LỚP TU SINH NAM

Nếu được nhiếp tâm và an trú tâm trên thân và quán thân được rồi thì nó phải nhiếp phục được tham ưu. Bây giờ thấy ưu phiền còn nghĩa là còn niệm này kia tức là chưa quán thân được.

Thời gian tu 4 Niệm Xứ là 5 phút thì giữ đúng 5 phút, đừng tăng lên. Lúc nào trong 5 phút đó cũng đều khắc phục được tham ưu, tức là không niệm mà không mõi mệt, nghe trong thân thoái mái dễ chịu, không có gì chướng ngại thì đã tu đúng.

4 Niệm Xứ, trên thân quán thân, tại vì quán thân có 3 giai đoạn, giai đoạn đầu tập quán để biết cách quán cho đúng vì chưa biết cách, như bây giờ cứ nhìn thân gọi là quán là không được mà phải quán như thế nào thì đức Phật đã dạy cho chúng ta: “Cảm giác toàn thân tôi biết tôi hít vô; cảm giác toàn thân tôi biết tôi thở ra”, phải sau một thời gian tu tập một tháng, hai tháng thì sức tỉnh thức trên thân mới có, chứ không phải chỉ mới biết một hai lần hoặc một hai ngày cho là đã quán được thân. Không phải đâu. Còn phải tập cho thuần, cho nhuần nhuyễn, mà khi đã được nhuần nhuyễn rồi thì mới tỉnh thức. Khi tỉnh thức rồi thì vẫn tiếp tục tập ở trên quán thân đó nữa. Tập cho đến khi tâm được định tỉnh trên thân các con. Khi định tỉnh được thì nó nhu nhuyến dễ sử dụng tức là nó có 7 năng lực giác chi.

BÀI THỨ MƯỜI MỘT: DẠY LỚP TU SINH NỮ

Ta thành chánh giác là nhờ tâm không phóng dật”. Vậy tâm không phóng dật là cái gì? Đó là lúc nào tâm cũng quay vô ở trên thân của no, nó biết thân rung rinh, động đậy; nó biết thân di chuyển như thế nào như thế nào một cách rõ ràng. Hãy để tự nhiên mà nó đi vào thì lúc bấy giờ tâm không phóng dật, lúc nào tâm cũng quay vô nhìn thân của nó rung động thôi.

Đi kinh hành, đi một cách tự nhiên, nghe thân rung động, rung chuyển dễ dàng; còn ngồi im lặng thì nghe hơi thở của mình, rồi cũng thấy thân rung động nhẹ nhàng. Đó là tâm quay vô, mà khi thường xuyên quay vô như vậy thì đó là thành tựu.

Thí dụ Thầy ngồi đây nhìn ra như vầy mà Thầy cảm nhận được ngón chân của Thầy, rồi cảm nhận được cái mũi, cái trán, tóc của Thầy. Tức là từ dưới chân lên tới đỉnh đầu đều cảm nhận mà không cần phải thấy rung.

Khi ngồi yên mà không có một niệm gì khởi ra trong tâm mà nó không có một chướng ngại gì trên thân, tức là tâm an trú. Tâm an trú là tâm không có niệm. Bây giờ ngồi, thấy toàn thân từ đầu chí chân, thấy cái tâm quay vô quan sát cái thân, hoặc thấy hơi thở ra, vô tự nhiên mà trong khoảng thời gian một phút không có niệm gì xảy ra trong đó, vẫn thấy duy nhất là tâm thấy được thân, nó quay vô trên thân nó. Đó là 1 phút an trú.

Không phóng dật mình phải sống tự nhiên, đi biết mình đi, đứng biết mình đứng, ngồi biết mình ngồi. Nhưng đi, đứng, nằm, ngồi đều biết thân rõ ràng, tâm mình biết thân từ đầu tới chân, mỗi hành động đều biết rõ ràng.