DẠY TU THIỀN ĐỊNH XẢ TÂM
Sự tu hành cần thiết
nhất là phải cố gắng giữ gìn một hơi thở
có chất lượng, không cho một niệm vọng tưởng xen vào trong khi tu tập.
01 PHẠM HẠNH
CỦA NGƯỜI
TU THIỀN
1- PHẠM HẠNH CỦA NGƯỜI
TU THIỀN
Phải sống đúng giới hạnh
của người tu thiền. Tu thiền định không phải chỉ có biết tu thiền định mà thôi
mà còn phải tu tập giới Đức, nếu
không tu Giới đức thì không đúng con đường tu hành thiền định của Đạo Phật, Đạo
Phật gọi tu giới, là tu phạm hạnh.
2- MƯỜI ĐIỀU TÂM NIỆM
ĐỂ TU TẬP RÈN LUYỆN ĐỨC HẠNH
Phải cố gắng tập
trung tư tưởng đối với hơi thở từng giây từng phút, chú ý rất cẩn thận và rất
thận trọng, không được để một giây, một phút lơ là.
Trong khi tu tập thiền
hơi thở không được để tâm xao lãng dù chỉ một giây, phải tập tỉnh giác suốt
thời công phu, thận trọng hết sức mình.
Muốn tu thiền định phải trang bị cho mình một tín lực.
3- HƯỚNG DẪN PHÁP MÔN
“MỘT” HƠI THỞ CHO NGƯỜI MỚI TU
Bây giờ quý Phật tử đã ngồi
xong. Bắt đầu hít vô một hơi thở mạnh,
và sâu đến khi nào không còn hít vô được nữa mới thôi, nương theo hơi thở
này xương sống nâng lên thẳng đứng, giữ xương sống thẳng đứng này, ở tư thế này
rồi từ từ thở ra cho hết.
Khi thở ra hết vẫn giữ tư thế ngồi thẳng xương sống, nhìn
phía trước mặt cách chỗ ngồi 8 tấc, chú
ý tại nơi hai lỗ mũi, biết rõ hơi thở hít vô, thở ra, cảm giác hơi thở và sự
vận dụng hít vô, thở ra của mũi, cổ, ngực, và bụng.
Hãy lấy hơi thở đã chọn
để tu tập, lực hơi thở và sức lực nhiếp tâm của Quý Phật tử.
Hít vô, thở ra, đếm
“MỘT”.
Đếm xong “MỘT” nghỉ nửa
phút.
Nghỉ xong nửa phút
bắt đầu hít vô, thở ra đếm “MỘT’. Đếm xong “MỘT” nghỉ nửa phút, và cứ tiếp tục tu như vậy cho đến khi đúng 30
phút rồi xả nghỉ.
Suốt trong thời gian tu 30
phút, quý Phật tử luôn giữ tư thế ngồi
kiết già, lưng thật thẳng, không nhúc nhíc, không động đậy.
Quý Phật tử cần nhớ kỹ
chỗ này: ĐẾM “MỘT” MÀ THÔI, KHÔNG ĐƯỢC
ĐẾM “HAI”, “BA”, “BỐN”, “NĂM”. Đây là Pháp
môn tu một hơi thở cho người kém sức tập trung. Đây phải nói là trình độ tu
thấp nhất của pháp môn hơi thở.
Sự tu hành cần thiết
nhất là phải cố gắng giữ gìn một hơi thở có chất lượng, không cho một niệm vọng tưởng xen vào trong khi tu tập. Còn hoàn
toàn trong khi giờ nghỉ, có vọng tưởng
hay không vọng tưởng cũng không sao, đều tốt tất cả.
4- TU HÀNH KHÔNG PHẢI
LÀ DIỆT VỌNG TƯỞNG
Ở đây chúng ta chỉ ức
chế vọng tưởng để nhập định, vì có ức chế vọng tưởng mới làm chủ được vọng
tưởng.
5- HƯỚNG DẪN TU TẬP
HƠI THỞ CHO NGƯỜI ĐÃ TU LÂU
Bắt đầu: Quý Phật
tử hãy ngồi kiết già, ngồi thẳng
xương sống, mặt nhìn phía trước cách chỗ ngồi 8 tấc, hai mắt nhìn chóp mũi, chú
ý nơi hai lỗ mũi, chỗ hơi thở ra, vào.
Hít vô một hơi thở mạnh
và sâu, rồi từ từ thở ra cho hết.
Khi quý Phật tử thở ra xong đếm “một”.
Đếm “một” xong
quý Phật tử hít vô, thở ra đếm “hai”.
Đếm “hai” xong
quý Phật tử cẩn thận chú ý hơi thở thứ ba bắt đầu hít vô, thở ra đếm “ba”
Đếm “ba” xong chú
ý hơi thở thứ 4. Bắt đầu hít vô, thở ra đếm “bốn”.
Và cứ như thế hít vô, thở ra đếm đến 100 hơi thở, rồi nghỉ 10 phút.
Phật tử hãy chú ý. 100
hơi thở này hoàn toàn phải ức chế vọng tưởng, không để một niệm vọng tưởng xem vào, được như vậy mới gọi là 100
hơi thở có chất lượng.
Nghỉ 10 phút, quý
Phật tử vẫn giữ nguyên tư thế ngồi,
không được động thân, không được thay đổi vị trí, trong thời gian nghỉ 10 phút
quý Phật tử không được kìm tâm, giữ tâm mà hãy thả lỏng tâm, có vọng tưởng cũng
tốt, không vọng tưởng cũng tốt.
Trừ khi bị hôn trầm,
thì quý Phật tử đứng dậy đi kinh hành.
Nghỉ xong 10 phút quý
Phật tử tu trở lại 100 hơi thở, thở ức chế hoàn toàn không vọng tưởng rồi xả
nghỉ 10 phút, tu như vậy cho đúng 30
phút rồi mới xả nghỉ luôn.
6 - PHẢI ỨC CHẾ ĐƯỢC
VỌNG TƯỞNG TRONG THỜI CÔNG PHU
Khi nào ổn định được
hơi thở thì sẽ nhiếp tâm tu hành dễ dàng không còn có một niệm vọng tưởng
xen vào.
Tu tập 100 hơi thở mà quý Phật tử vẫn còn vọng tưởng thì hãy lùi lại 80, 60, 40, 20, 10, 5, 1 hơi thở; khi
lui lại 10 hơi thở thì chỉ nghỉ 1 phút mà
thôi.
Tu 1 hơi thở mà còn có vọng tưởng thì phải hướng tâm nhắc chừng
“vô”, tức là hít vô, “ra” tức là thở ra.
02 - THIỀN XẢ TÂM
1- THIỀN XẢ TÂM
Đạo Phật chỉ tu tập
tĩnh giác, hay là tỉnh thức để rồi nhân cái tâm tỉnh thức đó mà xả cái tâm của mình, tức là xả cái
tham, sân, si phiền não làm cho cái đời
sống của mình nó không còn đau khổ nữa, không còn giận hờn, phiền não, chứ
không phải đi vào trong cái sự tĩnh lặng.
Chánh niệm là cái
niệm không có đau khổ, không có giận hờn, phiền não, cái đó gọi là chánh niệm.
Chứ không phải là chúng ta ở trong cái niệm
hơi thở gọi là chánh niệm, mà nương cái niệm hơi thở để xả cái tâm của chúng ta, làm cho cái
tâm chúng ta trở về cái chánh niệm
2.ĐỨNG LẠI THÌ CHÌM
XUỐNG, TIẾN TỚI THÌ TRÔI DẠT, CHỈ CÓ VƯỢT QUA
3.TU TẬP LÀM CHỦ TÂM
TRƯỚC, RỒI LÀM CHỦ THÂN SAU
Giải quyết được cái
tâm mình giải thoát rồi thì chúng ta mới giải thoát được cái thân. Bởi vì cái tâm mà không giải
thoát được thì cái thân không giải thoát được.
Giận hờn, buồn rầu, sợ hãi, lo lắng thì đó là cái thọ của cái tâm Phật gọi là “ưu”. Cái “não” là phần đau khổ của cái
thân. “Não” là cái chân nó nhức,
cái đầu nó nhức, cái bụng nó nhức, cái tay nó đau, đó là não, nó làm cho chúng
ta đau khổ của cái thân.
Mục đích chúng ta
giải quyết cái khổ, cái đau khổ của cái
tâm, làm sao cho tâm hết phiền não đau khổ. Do đó hàng ngày chúng ta mới nhắc: “Tâm như cục đất, đừng có phiền não, đừng có tham, sân, si, đừng có
thương tiếc, đừng có hận thù, tất cả những cái đó là những cái đau khổ”. “Quán ly tham tôi biết tôi hít vô, quán ly
tham tôi biết tôi thở ra”. hoặc là chúng ta nhắc: “Quán ly tham tôi biết tôi đi kinh hành, quán ly tham tôi biết tôi đi
kinh hành”
Thân Hành Niệm,
chúng ta tu tập ở trong các hành động của thân để mà xả cái tâm, lấy cái hành động
của thân để mà xả cái tâm, cho nên luôn luôn nương theo cái hành động của cái thân làm cho tâm nó tỉnh thức để mà
nói nhắc nó xả.
Tâm nó được yên ổn.
Nó giải thoát rồi thì nó thanh tịnh, nó không còn giận hờn, phiền não, nó
không còn tham muốn, thì bắt đầu sẽ dùng cái pháp hướng để mà nhắc nó, để mà tịnh chỉ các cái khổ đau của cái thân,
tức là cái ưu, não của cái thân thì bây giờ cái thân đau thì mình nhắc làm cho
cái thân nó không còn đau đớn nữa, tức là tu tập những loại thiền định làm chủ thân.
4.TU TẬP VỪA SỨC THEO
ĐẶC TƯỚNG
5.TU TẬP XẢ TÂM CHỨ
KHÔNG PHẢI ỨC CHẾ THÂN TÂM - TU VỪA SỨC
6. GIỮ ĐỘC CƯ KHÔNG
NÓI CHUYỆN - KHÔNG NÊN ĐỌC KINH SÁCH NGOẠI ĐẠO
7.HẠNH ĐỘC CƯ
03 - THIỀN XẢ TÂM B
1. BÍ QUYẾT THÀNH
CÔNG CỦA THIỀN ĐỊNH LÀ ĐỘC CƯ
Bí quyết thành công của
thiền định của Đạo Phật, tức là độc cư, sống trầm lặng, sống một mình thì
may ra chúng ta mới dùng pháp hướng như
cái lý của đạo mà tác cái ý ra, để làm cho nó thấm nhuần tâm hồn chúng ta để
xả ly tham, sân, si.
2.TU TẬP ĐÚNG LÀ THẤY
KẾT QUẢ NGAY LIỀN
3.PHÁ HÔN TRẦM - PHẢI
CHIẾN ĐẤU HẾT SỨC
4.THIỀN XẢ TÂM
Thiền định đó nó
luôn luôn nó ở trong cái tỉnh giác để nó
giữ cái chánh niệm, chứ không phải nó luôn luôn nó ở trong cái tỉnh giác rồi nó ở trong tỉnh giác luôn. Thì nó
đâu có chánh niệm nữa, nó cứ tỉnh giác không thì cái niệm chánh nó đâu. bởi vì luôn luôn mình giữ tâm mình ở trong
cái tỉnh giác, cho nên mình bị ức chế
tâm, đâu có cái niệm chánh đâu cho nên làm sao xả. Còn mình ở trong cái niệm
chánh thì tức là mình sẽ xả được cái tâm, cho nên gọi là Thiền Xả Tâm
Khi cái chánh niệm
còn thì làm sao niệm vọng tưởng xen vô, phải không? bởi vì luôn luôn: “Quán ly tham tôi biết tôi hít vô, quán ly
tham tôi biết tôi thở ra”. Thở ra hít vô tức là tỉnh thức ở trong hơi thở; để ly tham, ly sân là chánh niệm.
Cái pháp hướng
người ta vừa nhắc tỉnh thức, vừa là
chánh niệm nó luôn xả, hai cái phần nó rõ ràng. Cho nên thỉnh thoảng 5, 10 hơi thở thì ta lại nhắc nó một lần.
Cho nên suốt cái thời gian 10 phút hay là 30 phút mà luôn luôn tu như vậy, thì hàng ngày mà nỗ lực tu như vậy cái tâm nó xả ly biết bao nhiêu không?
Còn bây giờ chúng ta cứ ngồi
im lìm ở trong hơi thở rồi hễ có một niệm gì xen vào thì cho nó là vọng tưởng,
tác ý ra cái pháp hướng cũng cho nó là vọng tưởng thì như vậy là chúng ta tu
thiền gì, thiền ức chế tâm, chứ
không phải là thiền xả tâm.
5.LÀM CHỦ THỜI GIAN
THEO ĐÚNG THỜI KHÓA ĐỀ RA - TU TẬP VỪA SỨC
Nhiếp trong hơi thở để mà tập xả tâm bằng cách quán ly tham, ly sân, ly si. Hoặc là quán tâm như cục đất, thì phải chọn cái
thời gian ngắn, đừng có để tạp niệm xen vô, để mà thất niệm của mình.
6.MỤC ĐÍCH TU TẬP TỈNH
THỨC TRONG MỌI HÀNH ĐỘNG
“Quán ly tham tôi biết
tôi chặt củi, quán ly tham tôi biết tôi quét sân”, thí dụ mình đang quét
thì mình ngay đó mình ly tham, ly sân, ly si. Bởi vì lấy tỉnh thức của cái hành động đó để mà xả cái tâm.
Tỉnh thức để xả tâm,
chứ tỉnh thức để tỉnh thức có nghĩa lý gì?
Chánh niệm là cái niệm
mà xả tâm của chúng ta mà ly tham, ly sân, ly si. Người tu thì luôn luôn giữ
chánh niệm tức là cái niệm xả tâm của
mình.
7.TU TẬP PHẢI CÓ VẤN
ĐẠO
8.LỜI NÓI ĐẦU (ĐƯỜNG
VỀ XỨ PHẬT TẬP 4)
Cứ ngồi giữ cái tâm của
mình, biết hơi thở ra, hơi thở vô này, không có vọng tưởng này, thì ngay đó
là thiền ức chế tâm rồi, chứ nó đâu
phải là cái thiền xả tâm, xả sao nó
không kèm theo một cái niệm xả, mà nó cứ giữ cái tâm,không có cho cái niệm
gì hết, thì tức là ức chế tâm
Bắt đầu tu tập từng
bước một, nhớ, tu tập từng bước một, không có vội vàng, không có muốn mà tu
một nửa tiếng hay hoặc 1 tiếng, 2, 3 tiếng đồng hồ đâu, không có vội vàng, tu từng hơi thở, từng 1 hơi thở rồi cho đến
nhiều hơi thở, rồi từng bước đi kinh
hành, từng 1 bước cho đến 10 bước đi kinh hành…
Lấy tâm nương hành động
của thân nội và ngoại tập tỉnh thức chánh niệm, để xả dục, xả ác pháp,
tránh không đi vào trạng thái tĩnh lặng, ức chế tâm mà đi vào trạng thái đoạn diệt tâm tham, sân, si khiến cho tâm thanh
thản, an lạc và vô sự để đi vào trạng thái thanh tịnh bất động tâm, tức là định
của Đạo Phật.
04 - THIỀN CỦA ĐẠO PHẬT
1-NHẬP SƠ THIỀN- ĐỜI
SỐNG CỦA TU SĨ
Muốn nhập Sơ Thiền, tâm
ly dục ly ác pháp. Ly dục ly ác pháp thì tâm không phóng dật, tâm không phóng dật tức là tâm giải thoát. Đó là
giải thoát được những gì? Giải thoát được đời sống của chúng ta.
2-NGŨ LỰC
Nói về Tín lực -
lòng tin của chúng ta thì có Tứ Bất Hoại Tịnh. Tứ Bất Hoại Tịnh là Pháp môn gì?
Tin Phật, Tin Pháp, Tin Tăng và Tin Giới.
Tấn Lực: là pháp
ngăn ác diệt ác, sang thiện tăng trưởng thiện. Tấn Lực là cái sự siêng năng, tinh tấn hết sức mình
trong pháp này để thực hiện được tâm ly dục ly ác pháp.
Niệm lực là gì? Đức
Phật xác định Niệm Lực là Tứ Niệm Xứ.
Trên Tứ Niệm Xứ: trên thân quán thân tu về nhân
tướng, đó là Định Vô Lậu. Tu về hành
tướng nội là hơi thở, Định Niệm Hơi Thở; về hành tướng ngoại tức là Tĩnh giác chánh niệm định. Đó là ba cái loại
định ngăn ác diệt ác để hỗ trợ cho Tứ
Chánh cần thực hiện Định tư cụ.
3-TRIỆU CHỨNG CỦA NGƯỜI
GẶP PHÁP TƯỞNG
Tâm Thức của
chúng ta chứ không phải dẫn ý thức
hay hoặc là lục thức mà đến Tam minh được.
05- THIỀN HƠI THỞ
1- Ổn định một hơi thở.
2- Giờ giấc tu hành.
3- Cách thức nhiếp tâm.
ỔN ĐỊNH HƠI THỞ
* Mới bắt đầu tu tập
hơi thở quý Phật tử chỉ tập làm quen
một hơi thở, nhận rõ một hơi thở, và lúc
nào thở cũng đúng hơi thở đó, đó là cách tập luyện thứ nhất.
* Cách tập luyện thứ hai: quý Phật tử tập luyện biết cách giữ được một hơi thở không
thay đổi.
* Cách tập luyện thứ ba: quý Phật tử tập luyện cách sử dụng hơi thở.
Khi tập luyện ba cách
này được thuần thục tức là quý Phật tử đã ức
chế được vọng tưởng, bấy giờ chỉ còn đợi thời gian trong quá trình tu tập
là quý Phật tử nhập An chỉ định đầu
tiên.
Thì khi chúng ta làm
chủ được tâm chúng ta bằng sợi dây hơi thở thì chúng ta sai khiến tâm mình, thân mình như sai
khiến con trâu vậy.
* Muốn ổn định được
hơi thở thì phải lần lượt tập luyện theo ba cách dưới đây:
1- Phải biết rõ hơi
thở nào của mình ức chế được vọng tưởng.
2- Làm cách nào để giữ
gìn hơi thở không cho thay đổi.
3- Phải ổn định tư thế
ngồi trước khi tu luyện hơi thở.
* Muốn thực hành thiền định trong pháp môn hơi thở thì phải
biết rõ hơi thở nào của mình ức chế được
vọng tưởng.Ở đây có hai cách:
1- Phải biết rõ lực của
hơi thở mình đang nhiếp tâm.
2- Phải biết rõ sức lực
của mình nhiếp tâm, trong một ngày một đêm chia làm 4 thời mỗi thời 30 phút.
PHẢI BIẾT RÕ HƠI THỞ
NÀO CỦA MÌNH ỨC CHẾ ĐƯỢC VỌNG TƯỞNG
1-Muốn biết rõ lực của
hơi thở của mình đang nhiếp tâm ức chế được vọng tưởng thì cần phải chọn hơi thở cho phù hợp với cơ thể của
mình để luyện tập dễ dàng. Hơi thở chọn là hơi thở phải đủ lực mới ức chế được vọng tưởng. Ức chế được vọng tưởng phải
tính sức lực của hơi thở và thời gian tu tập hơi thở đó.
Tính sức lực của hơi thở để mọi người tu được bắt đầu, đó là
một hơi thở. Một hơi thở là sức tối
thiểu cho người yếu sức tập trung. Còn mức tối đa cho người có sức tập trung giỏi là 100 hơi thở.
Còn hơi thở nào suốt
trong thời gian một ngày, một đêm tu tập chia làm 4 thời mỗi thời 30 phút, khi tu tập có thời không vọng tưởng, có thời
có vọng tưởng thì hơi thở đó chưa được gọi là hơi thở có lực ức chế tâm. Vậy
quý Phật tử phải chọn hơi thở khác.
2- Phải biết rõ sức lực
của mình nhiếp tâm, trong một ngày một đêm chia làm 4 thời mỗi thời 30
phút.
Thở một hơi thở tập
trung tâm rất kỹ trong hơi thở đó rồi đến “một”,
đếm xong nghỉ nửa phút. Nghỉ xong nửa
phút rồi tiếp tục thở 1 hơi thở nữa. Rồi nghỉ một nửa phút. Cứ thở và nghỉ như
vậy cho đến khi đúng 30 phút mới xả thiền. Hoàn toàn trong 30 phút tu tập hơi
thở cố giữ gìn không có một niệm vọng tưởng
xen vào. Còn nửa phút nghỉ trong
khi tu xong một hơi thở, lúc nghỉ có vọng
tưởng cũng được, không vọng tưởng cũng được.
Thấy sức tập trung của mình có khá hơn thì nên tu tập 2 hơi thở. Cách tập như thế này:
Hít vô, thở ra đếm “một”. Rồi tiếp tục
bắt đầu tiếp tục “hít vô, thở ra” đếm “hai”,
đếm xong nghỉ nửa phút. Sau khi nghỉ xong một nửa phút bắt đầu tu trở lại.
Hít vô, thở ra đếm “một”,
Hít vô, thở ra đếm “hai”,
Đếm xong “hai” nghỉ một nửa phút.
Cứ như vậy mà tu tập cho đúng 30 phút rồi xả thiền nghỉ. Nhiếp
tâm như vậy trong bốn thời công phu một ngày, một đêm thời nào cũng không có vọng
tưởng xen vào.
Nếu quý Phật tử thấy mình có sức tu tập khá hơn thì nên tu 3 hơi thở:
Hít vô, thở ra đếm “một”
Hít vô, thở ra đếm “hai”,
Hít vô, thở ra đếm “ba”,
Đếm xong nghỉ nửa phút.
- Nếu thấy sức của mình tập trung khá hơn, thì quý Phật tử nên
tu 4 hơi thở, cách thức đếm và tu
cũng như tu 3 hơi thở vậy.
- Nếu thấy sức của mình tập trung khá hơn, thì quý Phật tử nên tu 5 hơi thở, cách thức đếm và tu
cũng như tu 4 hơi thở vậy.
- Nếu 5 hơi thở
thấy có vọng tưởng còn xen vào đó là sức nhiếp tâm trong 5 hơi thở chưa đủ sức.
Quý Phật tử phải lui lại 4 hơi thở.
Nếu 4 hơi thở còn
vọng tưởng thì lui lại 3 hơi thở.
Nếu 3 hơi thở còn
vọng tưởng thì lui lại 2 hơi thở.
Nếu 2 hơi thở còn
vọng tưởng thì lui lại 1 hơi thở.
Nếu 1 hơi thở còn
vọng tưởng tu 1 hơi thở nghỉ 1 phút.
Nếu nghỉ 1 phút còn có vọng tưởng thì nghỉ 2 phút.
Muốn biết hơi thở nào
ức chế được vọng tưởng thì quý Phật tử hãy căn cứ vào mức hơi thở bình thường
lấy làm chuẩn, từ đó quý Phật tử thở hơi
thở mạnh và nhanh hơn 1 chút, rồi thử nhiếp tâm trong 1 phút, nếu 1 phút mà
ức chế được vọng tưởng thì tiếp tục tu phút thứ 2, nếu phút thứ 2 nhiếp tâm được
nghĩa là không có vọng tưởng xen vào thì tiếp tục tu phút thứ 3, thứ 4, thứ 5
và thứ 6, và suốt 30 phút không có vọng tưởng.
Tu trong 4 thời công
phu, sáng, chiều, tối, khuya, mà thấy không
có một niệm vọng tưởng xen vào trong mỗi thời công phu, thì biết đó là hơi
thở ức chế được tâm mình. Còn có khi có
vọng tưởng, có khi không vọng tưởng thì quý Phật tử phải thở hơi thở mạnh hơn
hơi thở đó một chút.
Tu tập cho đến chừng nào nhập Định an chỉ mới thôi.
GIỮ GÌN HƠI THỞ KHÔNG
THAY ĐỔI.
06. THAM VẤN NHẬP SƠ
THIỀN 2001
A- VẤN ĐẠO: TRẠNG
THÁI SƠ THIỀN, CÁCH THỨC TU SƠ THIỀN
Ly dục, ly ác pháp
để cho cái tâm chúng ta nó lìa những cái tâm tham, sân, si đó mà nó trở về nó định trên hơi thở gọi là tâm không
phóng dật.
Cái si hết thì
tham, sân nó sẽ hết.
B- VẤN ĐẠO TỨ CHÁNH CẦN
VÀ TỨ NIỆM XỨ
1 - TỨ CHÁNH CẦN
a- TỨ CHÁNH CẦN LÀ
GÌ?
b - PHƯƠNG PHÁP TU TỨ
CHÁNH CẦN
Tu Định Niệm Hơi Thở
để mà cái tâm mình nó luôn nó tập trung ở trong cái hơi thở mà nó không khởi
cái niệm tức là ngăn cái niệm ở trong đầu của mình.
Sống độc cư là
mình ngăn các ác pháp. Rồi bây giờ mình
ngăn cái đầu của mình nó không khởi niệm thì mình phải tập trung nó vào
trong cái hành động đi, đứng, nằm, ngồi
của mình để mình ngăn các pháp ác, đó là cái phương pháp ngăn.
Mà nó đã khởi ra một
cái niệm thì phải diệt, tức là ngăn rồi diệt.
Tứ Chánh Cần là
siêng năng làm sao cái phước vô lậu
của chúng ta càng ngày càng tăng trưởng, Thanh
thản, An lạc, Vô sự.
Tứ Chánh Cần ở
trên Thân, Thọ, Tâm, Pháp mà nó thực hiện cho nên gọi là Tứ Chánh Cần tu trên Tứ Niệm Xứ, chứ không phải tu Tứ Niệm Xứ. Mà Tứ
Chánh Cần tu trên Tứ Niệm Xứ. Ngăn ác ở
đâu? Ngăn ác cho thân, thọ, tâm, pháp của chúng ta.
2 - TU TẬP TỨ NIỆM XỨ
TRÊN TỨ NIỆM XỨ
Tu Tứ Niệm Xứ là
trên tứ niệm xứ của chúng ta, chúng ta quan sát tứ niệm xứ của chúng ta để rồi có một cái chướng ngại nào trên đó thì
ngay đó chúng ta thấy vô thường, khổ, vô
ngã, phải không? Mà thấy được vô thường, khổ, vô ngã thì tức là đẩy lùi được chướng ngại pháp trên thân của
chúng ta, mà Đức Phật gọi là: “trên thân quán thân để khắc phục tham ưu”.
Nó không còn tham, sân, si, nó không còn ưu phiền ở trên đó nữa, phải không? Đó
là chướng ngại. Cho nên trong Tứ Niệm Xứ
tu Tứ Niệm Xứ.
Và cái giai đoạn nào
mà tu Tứ Niệm Xứ? Là cái giai đoạn phải ngăn ác, diệt ác hết rồi mới tu Tứ Niệm Xứ. Bởi vì Tứ Niệm Xứ là
quét những cái vi tế ở trên thân, thọ,
tâm, pháp của nó chứ không phải còn cái
thô mà quét được.
Người tu Tứ Niệm Xứ
là cái người hoàn toàn phải thanh tịnh,
ăn uống giới luật phải nghiêm chỉnh rồi.
Ngăn ác, diệt ác lúc nào tâm cũng Thanh thản, An lạc, Vô sự thì bắt đầu họ ngồi
tu Tứ Niệm Xứ thì họ không bị hôn trầm, thùy miên, vô ký. Cho nên tu Tứ Niệm Xứ
là sau khi tu Tứ Chánh Cần đã viên mãn.
Tu Tứ Niệm Xứ thì
nó không có ngăn ác, diệt ác gì của
nó hết, mà hoàn toàn là nó ở trên đó mà nó
quét sạch những cái vi tế của nó thôi, cho nên nó phải rất tỉnh táo, chứ
còn nếu mà nó còn si, nó còn ham ngủ thì không được.
Phải Thánh hạnh mới
tu Tứ Niệm Xứ, còn cái phàm hạnh thì
chưa tu Tứ Niệm Xứ được.
Tứ Niệm Xứ chỉ dùng pháp hướng khi có một cái niệm
vừa chớm khởi là chúng ta đã thấy nó là dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu. Kiết sử,
là ái kiết sử hay là hữu tham kiết sử đều thấy ngay liền, thì ngay liền chỉ còn tác ý để mà đẩy lui chứ không bao
giờ có được quán.
Quán tức là có sự
suy tư, suy nghĩ ở trong đó, còn cái này thấy mặt. Ờ, đây là dục lậu hãy đi, chỉ
tác ý như vậy rồi nó đi liền tức khắc, cho nên thân tâm chúng ta thanh thản, an
lạc, vô sự. Còn bây giờ chúng ta phải
suy tư quán thì tâm chúng ta bận công việc tư duy thì không còn an lạc. Cho
nên Tứ Chánh Cần thì nó tu khác, mà Tứ Niệm Xứ thì tu khác. Cho nên nhanh chóng
liền tức khắc khi có một cái niệm nào ngay đó đẩy lui liền tức khắc bằng cái
phương pháp tác ý. Đó đó là cách thức tu
của Tứ Niệm Xứ.
07. CHƯ ÁC MẠC TÁC
Chư ác mạc tác,
Chúng thiện phụng hành.
Tự tịnh kỳ ý.
Các pháp ác không nên làm, nên làm các pháp thiện, tự cái
tâm nó thanh tịnh.
Vậy cái niệm thiện là
cái niệm gì? Hiện bây giờ cái tâm của mình nó khởi ra cái niệm gì nó cũng niệm ác hết.
Thanh thản là nó ở
trong thiện pháp, mà thiện pháp thì tự tịnh kỳ ý. Thanh tịnh cái ý rồi, thì lúc
bây giờ cái tâm của mình nó sẽ ở chỗ
nào? Nó sẽ ở trên hơi thở. Bởi vì cái động dụng của cái thân của chúng ta
là cái hơi thở.
Cho nên ví dụ như bây giờ mình đi nè, mình làm nè mà mình không khởi niệm gì hết, thì lúc bấy
giờ nó ở đâu, nó ở trong cái hành động mình
đang làm nè, phải không? Cho nên ngay đó là mình thấy, mà nếu mà mình sống như vậy đó thì mình có tu tập gì đâu.
Cho nên do đó mình ngăn
ác và diệt ác, vì vậy mà cái tâm nó
sẽ trở về với vị trí của nó là hơi thở; hoặc là mình đi mình biết mình đi,
mình đứng mình biết mình đứng.
17 LỜI SÁCH TẤN CỦA
THẦY
I- ƯỚC MUỐN
II - A LA HÁN CÒN BUỒN
KHỔ
3.LÀM CHỦ THÂN, THỌ,
TÂM, PHÁP - ĐỘC CƯ
Phòng hộ sáu căn là
giữ gìn nó để khi nó tiếp xúc với vật
gì thì nó không bị dính mắc, tiếp xúc vật gì nó không bị tham đắm, không bị
tham mê, do đó gọi là phòng hộ chớ không phải nhiếp phục nó. Mà phòng hộ sáu
căn giữ gìn không cho dính mắc, tức là độc
cư.
4.TU TẬP PHẢI VỪA VỚI
SỨC CỦA MÌNH
5.SÁCH TẤN
6.MỤC ĐÍCH TU HÀNH
Mục đích chúng ta tu
hành là luyện cho mình có cái đạo lực, cái đạo lực là cái sức lực của đạo
làm cho làm chủ được cái sống chết của mình, làm chủ được cái đời sống của con người chúng ta, chứ không phải là
đi tìm một cái lạc khác hơn là cái lạc của dục lạc.
7.PHÂN BIỆT PHÁP HƯỚNG
TRUYỀN LỆNH VÀ PHÁP HƯỚNG ĐIỀU KHIỂN
8.CHÁNH NIỆM TĨNH
GIÁC - HUẤN LUYỆN TÂM GIAI ĐOẠN MỚI TU TẬP
Tĩnh giác chánh Niệm
là cái niệm hơi thở, cái niệm đi, cái niệm làm công việc, cái niệm đó là cái niệm
ở trên thân của chúng ta. Do cái thân
hành đó mà chúng ta niệm theo cái
thân hành đó mà chúng ta tu tập gọi là Chánh Niệm Tĩnh Giác.
9.TU PHẢI NHIỆT TÂM
TRONG LÚC THỰC HIỆN THỜI KHÓA
10.TU HÀNH PHẢI NHIỆT
TÂM, NHIỆT HUYẾT XẢ SẠCH TÂM
11.TU KHÔNG CẦN NHIỀU,
TU ÍT MÀ ĐẠT ĐƯỢC CHẤT LƯỢNG
12.NĂM ĐIỀU KIỆN ĐỂ
TU HÀNH THEO ĐẠO PHẬT
13.RÈN LUYỆN ĐẠO LỰC
14.ĐIỀU KIỆN ĐỂ ĐẠT
CHẤT LƯỢNG MỖI THỜI TU
15.TU PHẢI ĐÚNG THỜI
GIAN QUY ĐỊNH, PHẢI LÀM CHỦ TỪNG GIỜ PHÚT
16.ĐỊNH VÔ LẬU - LỢI
ÍCH CỦA NGỒI KIẾT GIÀ LƯNG THẲNG
17.NGHĨA TÍN THỌ -
PHÁP TÍN THỌ